CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) – Phần 8
“Đang diễn ra những thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua và … chúng ta là những người đang cùng nhau tạo ra các thay đổi đó!”
1. “Các vị tướng dẫn dắt các đội quân còn hoàng đế thì lãnh đạo đế quốc”
Đã có một khoảng thời gian gần 2 tháng kể từ khi tôi viết phần 7 của loạt bài này. Từ thời điểm đó tới nay đã có nhiều biến động trên chiến trường. Tuy nhiên, nếu các bạn mong muốn đọc về các chi tiết nhỏ như người Ukraine đã chiếm được làng nào hôm qua hay có bao nhiêu xe Leopard 2 thực sự đã bị bắn cháy thì các bạn sẽ không thấy các thông tin đó ở bài này. Do đó, tôi xin nói trước là ở phần này, chúng ta tiếp tục bàn về “bức tranh lớn” của cuộc chiến.
Vì thời gian ngắt quãng giữa hai phần là khá lâu nên, để các bạn dễ theo dõi, ở phần đầu của Phần 8 này, tôi sẽ tóm tắt một số ý chính mà chúng ta đã bàn trong 7 phần trước đây.
Ở phần 7, chúng ta đã bàn về việc Luật Liên bang số 93 năm 1995 đã khiến cho quân đội Nga, cho dù có một lực lượng quân số hơn hẳn quân đội Ukraine nhưng trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, nhưng họ chỉ có thể sử dụng các quân nhân chuyên nghiệp, có hợp đồng cho cuộc chiến ở Ukraine. Điều này dẫn tới việc số lượng quân nhân Nga có thể tham chiến ở Ukraine không vượt quá con số quân nhân chuyên nghiệp mà quân đội Nga có. Con số này, theo các nguồn của phương Tây là 170 ngàn người vào thời điểm trước chiến tranh. Con số này khá khớp với ước lượng của phương Tây là lực lượng tham chiến của Nga trong thời gian đầu cuộc chiến không vượt quá 180 ngàn người. Việc thiếu lính bộ binh đã khiến cho Nga thất bại với kế hoạch đánh nhanh kết hợp với lật đổ chính quyền Kiev trong giai đoạn đầu cuộc chiến.
Cũng ở phần này, chúng ta đã dừng lại ở thời điểm mà Ukraine đã có một cuộc phản công ngoạn mục ở Nam Kharkov vào tháng 9/2022. Chúng ta cũng đã bàn về việc dường như ban lãnh đạo Nga đã cố tình để trống khu vực này để người Ukraine giành chiến thắng. Chúng ta cũng thấy, tuy là một chiến thắng vang dội của Ukraine nhưng có vẻ như người Nga đã chuẩn bị kỹ càng cho cuộc rút lui của mình tại đây. Cuộc rút lui đã được tổ chức tốt tới mức người Nga đã không chịu tổn thất đáng kể nào và họ mang theo được cả những người Ukraine đã hợp tác với họ để tránh bị trả thù. Đối với phía Ukraine, chiến thắng tuy vang dội về danh tiếng và có giá trị rất lớn về chính trị (lấy lại niềm tin cho các đồng minh và dân chúng) nhưng về mặt quân sự họ không đạt được kết quả gì nhiều. Khi các đơn vị Nga không bị đánh tổn thất nặng (người Ukraine không thu giữ được một lượng vũ khí lớn nào cũng như không bắt được một nhóm tù binh trên 10 người nào) thì điều đó có nghĩa là người Nga sẽ có thể quay lại bất cứ lúc nào trong tương lai.
Cũng ở phần này chúng ta cũng đã bàn về việc Kremlin đã lợi dụng sự phản ứng của người dân - được khơi lên bởi những người có ảnh hưởng trên mạng xã hội (“KOLs”) và được kịch tính hóa bởi những lời chỉ trích mạnh mẽ từ Ramzan Kadyrov, tổng thống nước cộng hòa Chechnya trong thành phần Liên Bang Nga, đối với sự “bất tài” của các tướng lĩnh Nga – để tiến hành “vệ quốc hóa” cuộc chiến ở Ukraine bằng việc sáp nhập 4 tỉnh của Ukraine vào Nga.
Ở cuối phần 7 này, tôi đã nói rằng “mâu thuẫn sâu sắc nhất giữa Putin và bộ chỉ huy quân Nga tại Ukraine là việc sử dụng lính nghĩa vụ quân sự để khắc phục vấn đề thiếu quân số.”
Câu hỏi đặt ra là mặc dù quân Nga đã giành được những thắng lợi to lớn ở phía Đông và phía Nam Ukraine trong giai đoạn đầu của cuộc chiến và cả Putin lẫn các tướng lĩnh chiến trường của Nga đều hiểu là việc thiếu bộ binh là lý do khiến cho chiến dịch quân sự không thể thành công thì tại sao giữa họ vẫn xảy ra các mâu thuẫn khiến cho từ tháng 4/2022 tới tháng 11/2022 có sự thay đổi liên tục về tướng tổng tư lệnh quân đội Nga (tướng Dvornikov bị thay thế bởi Zhidko rồi tướng Zhidko lại bị thay bởi Surovikin)?
(về các tướng này và sự thay đổi của chức tổng tư lệnh quân đội Nga tại Ukraine các bạn có thể xem ở đây CHIẾN TRANH Ở UKRAINE - Nga rút lui ở Kherson và một giai đoạn khốc liệt mới của cuộc chiến sắp bắt đầu. (substack.com)
Về chiến thắng của Nga trong giai đoạn đầu của cuộc chiến các bạn có thể xem ở đây CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) – Phần 4. Chúng ta thấy những gì Putin muốn chúng ta thấy. (substack.com)).
Câu trả lời ngắn gọn là “các vị tướng dẫn dắt các đội quân còn hoàng đế thì lãnh đạo đế quốc”.
Nói một cách khác, giữa Putin và tướng chiến trường giàu kinh nghiệm nhất của Nga, Dvornikov (người được phương Tây mệnh danh là “tên đồ tể ở Syria” và là người đã đánh bại cánh quân phía Nam của Ukraina, hạ thành Mariupol và cuối cùng tiến lên Donbass chiếm hai thành phố Lisychansk và Severodonetsk vào tháng 7/2022) có sự mâu thuẫn không dung hòa được là cách nhìn nhận về cuộc chiến tranh Ukraine và cách thức thực hiện nó.
Đối với một cuộc chiến thì một vị tướng hay một tổng thống đều có tầm nhìn chiến lược và chiến thuật. Tuy nhiên, tầm nhìn của một vị tướng về chiến lược, sẽ hạn hẹp hơn tầm nhìn của một tổng thống, nhưng về chiến thuật thì lại cụ thể chi tiết hơn.
Tôi sẽ dùng hình ảnh của một người chơi cờ để mô tả về sự khác nhau trong cách nhìn chiến lược, chiến thuật giữa một vị tư lệnh chiến trường, một bộ trưởng quốc phòng và một tổng thống.
Đối với một vị tư lệnh chiến trường như tướng Dvornikov thì bàn cờ của ông là toàn bộ nước Ukraine và các tỉnh của nước Nga và Belarus tiếp giáp với quốc gia. Các quân cờ trên bàn cờ đó là các đơn vị quân đội và các trang thiết bị quân sự. Đối thủ của ông là quân đội Ukraine hoặc bất kỳ đội quân đối địch nào khác (các đội quân của NATO dưới dạng lính tình nguyện cho Ukraine). Luật chơi cờ của ông thuần túy là luật chơi quân sự: tiêu diệt càng nhiều quân địch và giữ cho thiệt hại của mình càng ít càng tốt; khống chế hoặc kiểm soát càng nhiều mục tiêu càng tốt.
Đối với một bộ trưởng quốc phòng như Shoigu, bàn cờ của ông là toàn bộ các khu vực địa lý mà Nga có lợi ích và sử dụng quân sự là một công cụ để bảo vệ lợi ích đó. Đó là toàn bộ nước Nga và các nước tiếp giáp nó. Đó là vùng Trung Đông (Syria), Bắc Cực hay các vùng biển mà hải quân Nga hiện diện. Các quân cờ trên bàn cờ của ông là lực lượng võ trang và nền công nghiệp quốc phòng cùng với các phòng nghiên cứu vũ khí. Đối thủ của ông là quân đội các nước phương Tây và tất cả các quân đội, nhóm vũ trang nào (ví dụ như ISIS) có thể là đối thủ của quân đội Nga trên chiến trường. Luật chơi cờ của ông là một sự giao thoa giữa các luật chơi của chính trị, kinh tế, đối ngoại và quân sự. Trong đó, ông phải đảm bảo rằng quân đội Nga có đầy đủ sức mạnh quân sự trong hiện tại và tương lai nhưng sức mạnh đó phải hài hòa với tiềm lực kinh tế, tình hình chính trị trong nước và chính sách đối ngoại của Nga.
Đối với một tổng thống như Putin, thì bàn cờ của ông là cả thế giới. Các quân cờ trên bàn cờ của ông là các quốc gia, hoặc khối các quốc gia (như EU, NATO, hay BRICS). Luật chơi của ông là một thứ luật chơi phức tạp nhất trong các luật chơi của loài người. Trong đó luật chơi về kinh tế, chính trị lại đóng vai trò quan trọng hơn là quân sự. Nếu như trong cuộc chơi của các nhà quân sự, kết quả của cuộc chơi hoặc là thua-thua (lose-lose) hoặc thắng-thua (win-lose) thì trong cuộc chơi toàn cầu của tổng thống, việc tạo ra các mối liên kết thắng-thắng (win-win) lại quan trọng hơn là tạo ra các cuộc đối đầu win-lose.
Nói một cách hình ảnh thì các tướng lĩnh luôn đối đầu với kẻ địch trong một cuộc chiến sinh tử và họ sẽ làm mọi cách để chính họ tiêu diệt kẻ thù. Với một tổng thống thì việc phải đối đầu sinh tử với kẻ địch là giải pháp cuối cùng. Trước khi phải sử dụng đến cách đó, ông ta sẽ tìm mọi cách để làm suy yếu kẻ thù bằng các biện pháp từ kinh tế tới ngoại giao; thậm chí ông ta có thể tạo ra các liên kết với các đồng minh khác để khiến cho kẻ thù phải rơi vào một cuộc chiến (về tôn giáo, kinh tế, hay chính trị chứ không nhất thiết là quân sự) với một đối tượng khác để phân tán tiềm năng của kẻ địch.
Một cách hình ảnh khác là ván cờ của một tổng thống là tạo ra “thế” và “lực” cho quốc gia của mình. Thế ở đây là các mối liên minh trong quan hệ quốc tế và vị trí của quốc gia đó trong nền kinh tế, khoa học, chính trị của thế giới. Lực là tiềm lực thực sự của một quốc gia trong đó GDP không phải là thước đo thể hiện chính xác mà là khả năng độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị và quân sự của quốc gia đó. Ván cờ của bộ trưởng quốc phòng là tạo ra ưu thế về quân sự (khoa học, kỹ thuật quốc phòng, trình độ số lượng và chất lượng của các đội quân, tổ chức của bộ máy chỉ huy và học thuyết chiến tranh) của quân đội mình. Ván cờ của các vị tướng trên chiến trường là chuyển từ “thế” mà tổng thống và bộ trưởng đã tạo ra thành “lực” trên chiến trường nhằm tiêu diệt hoặc đánh quỵ đối phương.
2. “Bàn cờ” của Putin
Vào ngày 24/2/2022, Putin đã phát động một “cuộc chiến” không tiếng súng trên phạm vi toàn cầu song song với cuộc chiến tại Ukraine. Vào thời điểm 24/2/2022 và rất nhiều tháng sau đó, phương Tây vẫn không hề nhận thấy cuộc chiến không tiếng súng này đang diễn ra và nó mới thực sự là cuộc chiến chính, nên mọi hành động của họ chỉ hướng vào cuộc chiến trên thực địa ở Ukraine. Thậm chí, ngay ở Nga, nhiều người trong bộ máy chính quyền và thậm chí cả các tướng lĩnh tham gia vào cuộc chiến ở Ukraine cũng không nhận ra điều đó.
Vì “cuộc chiến” toàn cầu mà Putin phát động là một cuộc chiến thầm lặng và không phải được thực hiện bằng các đội quân nên nó có những cách thức, thời gian biểu hoàn toàn khác với những những gì diễn ra ở Ukraine. Trong một cuộc phỏng vấn khi vẫn đang còn là phu nhân của tổng thống Nga, bà Lyudmila Ocheretnaya có nói rằng Putin là một người đặc biệt ít nói. Từ thời trẻ cho đến thời điểm được phỏng vấn, ông không bao giờ nói với vợ về công việc của mình. Bà cảm thấy áp lực vì đôi khi ông - vì một vấn đề nào đó của quốc gia – có thể không nói chuyện gì ở nhà trong nhiều ngày. Tôi nghĩ rằng, cả phương Tây lẫn các tướng lĩnh Nga sau khi trải qua những gì trong một năm qua, giờ đây có lẽ đã hiểu sự áp lực mà bà Lyudmila phải chịu đựng khi sống cạnh tổng thống Putin. Ông như một cỗ máy mật mã câm lặng – người ta thấy nó đang chạy rất nhanh, nhưng không hiểu những gì nó đang xử lý chỉ cho tới khi nó in kết quả ra.
Việc không hiểu bài toán mà cỗ máy mật mã Putin đang giải có thể là lý do mà tướng Dvornikov phải rời khỏi vị trí tổng tư lệnh quân đội Nga tại Ukraine dù rằng ông đã có những thành tích rực rỡ.
Tôi sẽ không cố gắng đoán mò xem cố máy mật mã Putin đang và sẽ nghĩ gì, tuy nhiên tôi sẽ đoán những gì mà ông ta đã nghĩ dựa trên những gì đã diễn ra trong thời gian qua.
3. “… CHÚNG TA LÀ NHỮNG NGƯỜI SẼ CÙNG NHAU TẠO RA CÁC THAY ĐỔI ĐÓ!”
Vào cuối tháng 3/2023, hơn 1 năm sau khi cuộc chiến Ukraine nổ ra, trong khi mà từ các quan chức hàng đầu lẫn truyền thông của phương Tây đã chuyển từ việc nói về một sự sụp đổ của nước Nga và một nước Nga hậu Putin sang chuyện Nga không được phép thắng trên chiến địa để Ukraine có ưu thế khi đàm phán chấm dứt chiến tranh thì chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã tới Moscow và có 2 ngày làm việc liên tục với tổng thống Putin. Nội dung các cuộc làm việc không được hai bên tiết lộ. Tuy nhiên, vào ngày 22/3/2023, trước khi từ biệt Putin để ra sân bay, đứng trước các ống kính truyền hình và biết rõ rằng mọi lời mình nói sẽ được truyền đi cho cả thế giới, chủ tịch Tập Cận Bình nói với tổng thống Putin là “Giờ đây đang diễn ra những thay đổi, những thay đổi chưa hề thấy trong 100 năm qua – và chúng ta là những người đang cùng nhau tạo ra các thay đổi đó”. Tổng thống Putin trả lời ngắn gọn “Tôi cũng nghĩ như vậy” và sau đó nói “chúc một chuyến đi an toàn. Bảo trọng, bạn quý của tôi”.
Trong các vũ khí hủy diệt hàng loạt thì bom khinh khí (bom H) là loại vũ khí có sức hủy diệt lớn nhất mà loài người đã chế tạo ra. Để kích hoạt phản ứng nhiệt hạch hydro, người ta cho kích nổ một quả bom nguyên tử. Sức nổ của một quả bom nguyên tử đã là khủng khiếp nhưng sức nổ của vụ nổ nhiệt hạch thứ hai do nó tạo ra còn mạnh hơn hàng chục lần. Tôi sẽ dùng hình ảnh này để mô tả những gì đã diễn và trong hình ảnh này thì cuộc gặp giữa Tập Cận Bình và Putin và những hành động chung của hai bên sẽ có tác động như một vụ nổ bom H và trái bom nguyên tử để kích nổ nó chính là cuộc chiến Ukraine.
Để hiểu ý nghĩa của cuộc gặp Putin-Tập Cận Bình, chúng ta cần phải quay ngược về quá khứ và tìm hiểu sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Lý do của việc này là vì phương Tây vẫn đang dùng đúng biện pháp mà họ đã dùng một cách thành công để làm sụp đổ (i) khối XHCN ở Đông Âu, (ii) Liên Xô và (ii) Nam Tư để nhắm tới việc tạo ra sự sụp đổ của Liên bang Nga. Và chính “bàn cờ” của Putin hiện nay đang sử dụng chính các bài học rút ra từ chiến lược này của phương Tây để chống lại họ.
Putin đã lên nắm quyền ở nước Nga được 23 năm (trong đó có 1 nhiệm kỳ ông nắm giữ vai trò Thủ tướng để tránh quy định hạn chế một người không được làm tổng thống quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp). Trong 23 năm đó, chúng ta có thể thấy sự thay đổi của nước Nga qua 2 giai đoạn: (i) giai đoạn 10 năm đầu tiên (2010 – 2020) khi nước Nga nhận ra những gì mà phương Tây đã cài cắm vào hệ thống kinh tế, chính trị của Nga trong thập kỷ 90s và (ii) giai đoạn tiếp theo, nước Nga chuẩn bị cho một cuộc đối đầu với phương Tây. Trong 10 năm đầu tiên, chúng ta sẽ thấy nước Nga vỡ mộng hội nhập phương Tây phát hiện ra rằng, muốn tiếp tục tồn tại thì họ phải học được cái bài học xương máu từ sự sụp đổ của Liên Xô. Trong giai đoạn tiếp theo, chúng ta sẽ thấy nước Nga bắt đầu cuộc tranh đấu của mình một cách đầy thực tế và tính trước sự thay đổi của tương quan giữa các khối quyền lực trên thế giới.
3.1 Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết và các bài học
Vào năm 1956, Nikita Khrushchev, người đã trở thành tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô sau khi Stalin mất, đã tuyên bố trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc rằng “chúng tôi sẽ lấy được nước Mỹ mà không cần nổ một phát súng. Chúng tôi không cần xâm lăng nước Mỹ. Chúng tôi sẽ phá hủy họ từ bên trong…” Vào thời điểm này, có nhiều lý do để nhiều người tin rằng tuyên bố của Khrushchev không là một lời sáo rỗng. Mười năm sau chiến thắng chủ nghĩa phát xít, nền kinh tế Liên Xô hoàn toàn được hồi phục và bắt đầu một chu kỳ phát triển mạnh mẽ. Ở phương Đông, đảng cộng sản Trung Quốc, đồng minh của Liên Xô, đã thành công trong việc đối đầu trực tiếp với quân đội Mỹ trên bán đảo Triều Tiên và kiểm soát hoàn toàn đại lục Trung Hoa. Liên Xô đã chế tạo được bom khinh khí vào năm 1955 và có một lượng bom hạt nhân đủ sức răn đe Hoa Kỳ. Trước đó hai năm, năm 1954, Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam, đã đánh bại Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 1. Điều này đã khơi mào cho phong trào giải phóng dân tộc dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống thuộc địa khiến cho các đế quốc châu Âu, đồng minh của Hoa Kỳ trở nên suy yếu.
Tuy nhiên, những sự kiện sau đó khiến cho Liên Xô bị mất các lợi thế trong cuộc cạnh tranh với phương Tây. Đầu tiên là sự đổ vỡ mối quan hệ đồng minh giữa Liên Xô và Trung Quốc trong những năm 1960 sau khi Khrushchev phê phán Stalin (Trung Quốc gọi hành động này là xét lại). Trong thập niên 60 và 70, Liên Xô và Trung Quốc trở nên đối thủ cạnh tranh trong việc lãnh đạo phong trào vô sản quốc tế. Tuy nhiên, trong hai thập kỷ 60 và 70, sự chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Quốc chưa là mối đe dọa ngay lập tức với sự tồn vong của Liên Xô vì (i) quốc gia này vẫn đang trên đà phát triển và (ii)Trung Quốc tuy đã trở nên thù địch với Liên Xô nhưng vẫn đối đầu với Mỹ. Ngoài ra, trong 10 năm kể từ 1965 tới 1975, khi mà nước Mỹ sa lầy ở cuộc chiến tại Việt Nam và chi phí của cuộc chiến này khiến cho chương trình cải cách xã hội nhằm mang lại phúc lợi cho quảng đại quần chúng Mỹ mà tổng thống Johnson khởi xướng (the Greate Society program) bị phá sản thì nền kinh tế Liên Xô lại tăng trưởng rất nhanh. Sự cân bằng về vũ khí hạt nhân với Hoa Kỳ cũng đạt được trong giai đoạn này.
Từ năm 1970 tới năm 1980, Liên Xô được hưởng lợi lớn từ việc giá dầu và khí tăng vọt sau cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất (1973). Vào năm 1975, Việt Nam, đồng minh của Liên Xô đã thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài nhất trong Chiến tranh Lạnh và nước Mỹ bắt đầu bị ám ảnh bởi “hội chứng chiến tranh Việt Nam”. Lúc này, Trung Quốc mới bắt đầu các bước đầu tiên để ổn định tình hình sau Cách mạng Văn hóa.
Năm 1979 có một loạt sự kiện sẽ là khởi đầu của sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết.
Thứ nhất, cách mạng Hồi giáo thành công ở Iran. Cuộc cách mạng Hồi giáo ở Iran đã làm thay đổi toàn bộ tình hình chính trị ở Trung Đông. Iran từ một quốc gia Hồi giáo nhưng thế quyền (với đội ngũ lãnh đạo được đào tạo và sống theo phong cách phương Tây) đã trở thành một quốc gia thần quyền. (Hai hình kèm theo đây là ảnh của quốc vương Iran chụp năm 1939 và vợ ông là Fawzia Pahlavi, công chúa Ai Cập và là hoàng hậu của Iran. Quốc vương Iran và vợ nói chuyện hàng ngày với nhau bằng tiếng Pháp. 2 bức ảnh này có thể hơi lạc đề ở đây nhưng thành thực mà nói, tôi không thể kiềm chế được việc chia sẻ tấm ảnh của hoàng hậu Fawzia vì nó cho chúng ta thấy một Iran rất khác với những gì chúng ta thấy ngày nay).
Cuộc cách mạng Hồi giáo Iran năm 1979 đã dẫn tới cuộc khủng hoảng dầu cùng năm vì thị trường lo ngại rằng cách mạng Hồi giáo sẽ lan sang các nước Hồi giáo khác và lật đổ các chính thể thế quyền thân phương Tây ở đây.
Sau khi đạt đỉnh cao nhất trong lịch sử (tới thời điểm đó) năm 1979 thì giá dầu lại sụt giảm nhanh chóng do các mỏ dầu khổng lồ mới ở vịnh Mexico, ở Biển Bắc (của Anh và Nauy), ở Alaska của Mỹ được đưa vào khai thác để bù chỗ thiếu hụt. Cuộc chiến tranh Iran-Irac trong 8 năm 1980 tới 1988 không làm cho giá dầu tăng mà thực tế khiến cho giá dầu quốc tế lại giảm sâu. Lý do là vì cuộc chiến này khiến cho sản lượng dầu của OPEC suy giảm trong khi đó các đối thủ mới về khai thác dầu như Mỹ, Liên Xô, Mexico, Anh và Nauy lại tăng sản lượng của mình. Ngoài ra, hàng loạt nền kinh tế lớn chuyển sang các nguồn năng lượng khác như than, khí tự nhiên, hạt nhân.
Chính việc giá dầu giảm liên tục trong thập niên 1980 đã khiến cho nguồn thu ngoại tệ của Liên Xô bị suy giảm nghiêm trọng vì xuất khẩu của Liên Xô tới thời điểm này chủ yếu là dầu mỏ.
Thứ hai, nền kinh tế dân sự của Liên Xô sau 3 thập niên phát triển liên tục từ 1945 tới 1975 đã đi vào thời kỳ trì trệ. Thêm vào đó cuộc chạy đua vũ trang trong Chiến tranh Lạnh đã ngốn mất một phần rất lớn các nguồn lực kinh tế của Liên Xô. Tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, từ công nghiệp tới nông nghiệp, đều không hiệu quả và không sản xuất đủ cho nhu cầu trong nước và do đó, phải bù đắp bằng cách dựa vào nhập khẩu. Việc nguồn thu từ xuất khẩu dầu mỏ giảm liên tục đã khiến cho nền kinh tế Liên Xô rơi vào khủng hoảng khan hiếm hàng. Chính cuộc khủng hoảng kinh tế này đã buộc ban lãnh đạo Liên Xô lựa chọn Gorbachev làm người lãnh đạo vì đường lối cải tổ của ông với hy vọng nó sẽ giải quyết được sự khủng hoảng kinh tế (nhưng thực tế, nó đã đẩy nhanh sự khủng hoảng và dẫn tới sụp đổ của Liên Xô).
Thứ ba, Liên Xô đưa quân đội vào Apghanistan, bắt đầu một cuộc chiến kéo dài 10 năm từ 1979 tới 1989 và kết thúc bằng việc thua trận và rút lui. Cuộc chiến Apghanistan tuy chỉ khiến khoảng 15 ngàn quân nhân thiệt mạng và 50 ngàn bị thương (một con số quá nhỏ so với cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên Xô 1941-1945) nhưng nó tạo ra nhiều bất ổn về chính trị và góp phần trực tiếp vào việc làm tan rã Liên Xô sau này. Các mâu thuẫn giữa các dân tộc trong Liên bang Xô Viết bộc lộ rõ trong thời kỳ này liên quan tới việc tuyển chọn và điều hành các binh sĩ tham chiến ở Apghanistan. Các chi phí cho cuộc chiến có tác động xấu tới nền kinh tế (đặc biệt là khi nguồn thu từ dầu suy giảm) đã làm lộ rõ khoảng cách về mức sống và sự bất công giữa các tầng lớp xã hội. Các cựu binh từ Apghanistan trở về (với sự thất vọng về mặt lý tưởng khi phát hiện ra rằng họ không chiến đấu vì một chính nghĩa nào ở đó) đã tạo ra một làn sóng bất mãn và tạo ra sự bất ổn trong xã hội. (Rất nhiều cựu binh từ Apghanistan, vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đã gia nhập “thế giới ngầm” và lực lượng cảnh sát ngại không dám đụng chạm tới họ). Điều nguy hiểm nhất là rất nhiều cựu binh Apghanistan, sau khi bị vỡ mộng lý tưởng, đã gia nhập các đảng phái chính trị theo đường lối dân tộc và trở thành nòng cốt cho các đội quân ly khai chống chính quyền trung ương trong giai đoạn hậu Xô Viết.
Quân đội Nga đã chịu thiệt hại rất lớn và chấp nhận thất bại trong cuộc chiến Chechnya lần thứ 1. Lý do là vì trong khi các đơn vị quân đội Nga chủ yếu là lính nghĩa vụ mới tuyển thì các đơn vị Chechen phần lớn lại được chỉ huy bởi các cựu binh Hồng quân từ Apghanistan trở về. Những người này không chỉ là những cựu binh thông thường, mà là những quân nhân người Trung Á và Hồi giáo đã được Hồng quân đặc biệt huấn luyện và sử dụng làm nòng cốt để chống lại lực lượng Mujahideen tại Apghanistan. Điều này khiến cho quân đội Nga, ở Chechnya, đã đụng phải những đối thủ là cựu binh ưu tú nhất của quân đội Liên Xô với kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm ở Apghanistan – và sự thất bại của một quân đội Nga rệu rã là dễ hiểu.
Thứ tư, Trung Quốc, để có được nguồn vốn và công nghệ từ phương Tây để phát triển kinh tế đã “ngả hẳn về phương Tây” và ra mặt đối đầu với Liên Xô. Một mặt, Trung Quốc vẫn duy trì tình trạng sẵn sàng chiến đấu của quân đội trên toàn tuyến biên giới với Liên Xô nhưng mặt khác, họ trực tiếp tiến hành chiến tranh với Việt Nam (một đồng minh của Liên Xô) (1979) và hỗ trợ Khme Đỏ tại Campuchia và Mujahideen ở Apghanistan (1979-1989).
Để tránh cho việc các vũ khí phương Tây hỗ trợ cho các phe chống Liên Xô bị mất vào tay Hồng quân như trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ đã bỏ tiền mua vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng của Trung Quốc. Trung Quốc nhận tiền bán vũ khí và vận chuyển tới tận chiến trường cho các phe chống đối. Đây là cách thức mà cả Trung Quốc lẫn phương Tây đều có lợi. Cách này cũng đã được phương Tây dùng lại trong thời kỳ đầu của cuộc chiến Ukraine – dùng tiền phương Tây để mua các phương tiện chiến đấu do Liên Xô cũ sản xuất để cung cấp cho Ukraine.
Việc Trung Quốc “ngả hẳn về phương Tây” đã dẫn tới việc quốc gia này trở thành “công xưởng của thế giới”. Với một lượng lao động khổng lồ, giá rẻ, Trung Quốc đã giúp cho nền kinh tế phương Tây bùng nổ vì hạ giá thành sản xuất và mở rộng thị trường.
Thứ năm, hàng loạt cấm vận về kinh tế và chính trị của các nước phương Tây lên Liên Xô do cuộc chiến Apghanistan đã được áp dụng và gia tăng trong suốt 10 năm chiến tranh.
Vậy những yếu tố trên đã khiến cho khối XHCN Đông Âu và Liên Xô sụp đổ như thế nào?
Vào năm 1981, khi bộ chính trị đảng Cộng sản Liên Xô bàn về việc có can thiệp vũ trang vào Ba Lan khi phong trào đối lập Công đoàn Đoàn kết đang tạo ra sự bất ổn qua các cuộc đình công toàn quốc và có khả năng làm chính quyền cộng sản Ba Lan sụp đổ, thì Andropov, người đứng đầu KGB (và sẽ là người đứng đầu Liên Xô một năm sau đó) đã nói như sau:
“Chúng ta không thể liều lĩnh làm điều đó. Chúng ta không muốn đưa quân vào Ba Lan. Đó là quan điểm đúng đắn và chúng ta phải tuân theo nó tới cùng. Tôi không biết tình hình Ba Lan sẽ diễn ra thế nào nhưng kể cả khi Ba Lan rơi vào tay của Công đoàn Đoàn kết, thì đó có nghĩa là cái phải đến - sẽ đến. Nếu các nước tư bản gây sức ép lên Liên bang Xô Viết, và các đồng chí đã biết rằng họ đã thống nhất về hàng loạt các biện pháp cấm vận về kinh tế và chính trị; điều đó sẽ rất nặng nề cho chúng ta. Chúng ta phải đặt đất nước mình và việc nâng cao sức mạnh cho Liên Xô lên trên hết...”
Đoạn phát biểu trên của Andropov, một người cứng rắn nhất trong bộ chính trị đảng CS Liên Xô và là người lãnh đạo cơ quan tình báo – phản gián cho thấy các cấm vận kinh tế của phương Tây cùng với các gánh nặng do cuộc chiến Apghanistan và nền kinh tế yếu kém đã khiến cho Liên Xô sẵn sàng chấp nhận bỏ cả Ba Lan mà không nổ một phát súng.
Sau khi Zajurelski, lãnh đạo mới của đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (đảng cộng sản), tuyên bố thiết quân luật thì Liên Xô chọn cách hỗ trợ về kinh tế cho Ba Lan để xoa dịu làn sóng chống đối của người dân Ba Lan chứ không đưa quân đội vào như đã làm ở Hungary năm 1956 và Tiệp Khắc năm 1968. Liên Xô đã vét hàng hóa trong nội địa của mình để đưa sang Ba Lan bán trong các cửa hàng (để giải quyết cuộc khủng hoảng thiếu hàng hóa trầm trọng khiến cho Công đoàn Đoàn kết khích động các cuộc bãi công toàn quốc). Các thiếu hụt trong nước của Liên Xô được bù lại bằng việc nhập khẩu từ các nước khác (nguồn chi được lấy từ tiền bán dầu thô trong năm 1980, thời điểm giá cao kỷ lục). Vào năm 1981, Ba Lan đã không sụp đổ.
Tuy nhiên, khi giá dầu tiếp tục suy giảm vào những năm cuối thập niên 80 thì cuộc khủng hoảng như ở Ba Lan lặp lại, nhưng lần này ở diện rộng hơn rất nhiều – toàn bộ các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô đều lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Tuy nhiên, sau một thập niên đánh nhau tại Apghanistan và giá dầu liên tục giảm, Liên Xô đã không còn khả năng hỗ trợ cho bất kỳ đồng minh Đông Âu nào về mặt kinh tế và càng không có khả năng can thiệp quân sự. Các chính quyền cộng sản ở Đông Âu lần lượt sụp đổ, dẫn tới khối quân sự Warsaw sụp đổ.
Sau khi khối XHCN Đông Âu sụp đổ thì cuộc sụp đổ của Liên Xô bắt đầu. Các công cuộc cải cách kinh tế của Gorbachev đã không mang lại kết quả nào ngoài việc khiến cho cuộc khủng hoảng kinh tế đã trầm trọng trở nên tan rã. Nếu trước khi cải tổ nó làm một nền kinh tế không hiệu quả thì vào giai đoạn cuối của cuộc cải tổ nó là một nền kinh tế không hoạt động và tan rã.
Các cuộc cải cách chính trị đã lật đổ hệ tư tưởng cũ nhưng lại không tạo ra một hệ tư tưởng mới, một lối thoát nào cho xã hội Liên Xô. Sự sụp đổ của hệ tư tưởng cộng sản đã tạo ra một khoảng trống về tinh thần trong đó các phong trào dân tộc chủ nghĩa ly khai bùng nổ. Xã hội Liên Xô rơi vào một cơn cuồng loạn đập phá tất cả những cái cũ cho dù họ không biết cái mới sẽ là gì. Cuối cùng là sự sụp đổ, phân rã của Liên bang Xô Viết.
Ba mươi năm sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, giờ đây nhìn lại, chúng ta có thể rút ra những nguyên nhân chính của việc tan rã Liên Xô như sau:
Mặc dù Liên Xô là một quốc gia có diện tích và tài nguyên thiên nhiên lớn nhất thế giới nhưng các sai lầm cơ bản sau về sử dụng nguồn lực đã khiến cho Liên Xô sụp đổ:
(i) Hệ thống kế hoạch hóa tập trung của nền kinh tế Liên Xô từ thập niên 70 trở đi đã làm cho nền kinh tế này trở nên càng ngày càng yếu kém.
(ii) Nguồn lực kinh tế được phân bổ quá nhiều cho quân sự do cuộc chạy đua vũ trang trong Chiến tranh Lạnh khiến cho các mặt hàng thiết yếu trong nước không đủ và nền kinh tế dân sự suy giảm dẫn tới khủng hoảng và sụp đổ.
(iii) Việc mở rộng các quan hệ đồng minh dựa trên ý thức hệ mà không tính tới lợi ích kinh tế khiến cho các đồng minh của Liên Xô trở thành gánh nặng cả về kinh tế lẫn quân sự chứ không giúp ích gì được khi cần.
(iv) Việc quá phụ thuộc vào nguồn thu từ bán dầu mỏ để trang trải cho chi phí nền kinh tế khiến cho nền kinh tế khủng hoảng khi giá dầu giảm.
(v) Cuộc chiến tranh ở Apghanistan và các hệ quả do nó tạo ra.
(vi) Sự sụp đổ về hệ tư tưởng cộng sản mà không có hệ tư tưởng thay thế khiến cho Liên Xô trở thành một cái xác sống (zombie) của một con khủng long khổng lồ, trên đó mọi thứ bệnh tật độc hại – từ ly khai, nội chiến, tới băng đảng, tham nhũng phát triển. Tất nhiên, khi một con voi nằm xuống, nó sẽ bị đủ mọi loại thú hoang từ hùm beo, chó sói tới kền kền kéo tới ăn thịt.
(vii) Việc chia rẽ với Trung Quốc khiến cho nguồn lực của Liên Xô bị suy giảm và khiến cho phương Tây trở nên mạnh lên rất nhiều nhờ lực lượng lao động và thị trường của “công xưởng của thế giới”.
1.2 Putin và các bài học từ sụp đổ của Liên Xô
Putin không phải là một nhà tư tưởng, một lý thuyết gia. Đã từng có thời phương Tây nói rằng ông đang triển khai một học thuyết, học thuyết Putin (Putinsm). Thế nhưng các quan điểm này dần biến mất vì không ai biết nó là gì cả. Putin không viết sách, không có các bài báo mang tính lý luận để ta có thể hiểu được chủ thuyết của ông là gì. Putin là là một nhà chính trị của hành động.
Vào đêm giao thừa năm 2000, khi trở thành quyền tổng thống Nga, Putin đứng trước một cảnh tượng tăm tối. Trước mặt ông là một con khủng long đã chết và bị phân thành nhiều mảnh. Đó là Liên bang Xô Viết. Phần lớn nhất của con khủng long đó là một con voi và con voi này giống một cái xác sống hơn là một sinh vật khỏe mạnh – và các con thú hoang phương Tây cũng đang muốn nó chết để xẻ thịt giống như với con khủng long Liên Xô – đó là Liên bang Nga.
Trong suốt 20 năm sau đó, Putin phải liên tục đối phó để đảm bảo rằng sự sụp đổ của Liên Xô không tái diễn với nước Nga. Chỉ tới năm 2023, lần đầu tiên chúng ta mới biết cách mà Putin nhìn nhận về nước Nga và vị trí của nó trên thế giới, trong tương lai. Đây là lý do khiến chúng ta phải xem xét kỹ các nguyên nhân khiến Liên Xô sụp đổ ở phần 3.1. ở trên.
Khi trở thành tổng thống Nga năm 2000, Putin đứng trước một hoàn cảnh khó khăn hơn những người Bolsheviks phải đối mặt năm 1930. Vào năm 1930, những người cộng sản Liên Xô bắt đầu xây dựng lại đất nước gần như từ con số không sau khi nền nông nghiệp, công nghiệp gần như bị xóa sổ sau Thế chiến thứ Nhất và cuộc Nội chiến. Dân số Liên Xô lúc đó cũng suy giảm (giống như nước Nga năm 2000).
Tuy nhiên nếu những người cộng sản bắt đầu tư con số không thì Putin phải bắt đầu từ con số âm.
Vào năm 1930, khi bắt đầu xây dựng lại đất nước, toàn bộ Liên Xô thống nhất về cả mặt lãnh thổ lẫn tư tưởng. Tất cả các thành phần chống chính quyền Xô Viết đã bị đè bẹp và các nước tư bản phương Tây vào lúc đó thực sự từ bỏ ý định tấn công Liên Xô sau các thất bại của các hoạt động can thiệp của họ thời Nội chiến 1918-1923. Vào năm 2000, nước Nga đang trên bờ vực tan rã và cuộc chiến ly khai ở Chechnya lại bùng nổ lần 2. Các nước phương Tây, sau thắng lợi trong việc đánh sụp Liên Xô, đang ráo riết thâm nhập vào sâu trong xã hội Nga cả về chính trị lẫn kinh tế. (sự ra đời của Đạo luật Liên bang số 93 mà tôi đã bàn ở phần 7 https://baoanhthai.substack.com/p/chien-tranh-o-ukraine-con-uong-dan-c4f).
Năm 1930, những người Bolshevik không có các nhà máy nhưng hầm mỏ và nguồn tài nguyên thiên nhiên khác hoàn toàn do nhà nước nắm giữ và từ đó họ có thể xây dựng lại nền kinh tế. Vào năm 2000, mọi doanh nghiệp quan trọng nhất của nền kinh tế, mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất của Nga nằm trong tay các nhà tài phiệt trong nước và tư bản phương Tây do chính sách tư nhân hóa ồ ạt của Yeltsin trước đó.
Vào năm 1930, những người Bolshevik có một đảng cách mạng gồm những người trung kiên nhất, cùng chí hướng và sẵn sàng chết vì lý tưởng của mình. Vào năm 2000, Putin, từ một nhân vật đơn độc kín tiếng trong chính quyền, được đẩy lên nhanh chóng thành thủ tướng rồi quyền tổng thống và “thừa hưởng” lại một nhóm các đảng chính trị của Boris Yeltsin và thậm chí từ cả các đối thủ chính trị của Putin như Chernomyrdin và Luzhkov. Thành viên các đảng này là một tập hợp những thành phần rất khác nhau và gắn bó với nhau chỉ bởi vì lợi ích về quyền lực và kinh tế - và chính họ là người góp phần quan trọng trong việc tạo ra tình trạng khốn khó của nước Nga lúc đó.
3.2.1 Xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển
Do bắt đầu từ “con số âm” đã nói ở trên, Putin đã không thể bắt tay ngay vào việc xây dựng lại đất nước mà ông phải mất 10 năm đầu tiên để lấy lại cho nhà nước các nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng lại nền kinh tế. Trong 10 năm này, ông đã dần dần loại trừ các nhà tài phiệt ra khỏi nền kinh tế Nga và trả lại các nguồn lực cơ bản cho nhà nước.
Song song với việc đó, Putin xây dựng một nền kinh tế theo cơ chế thị trường và các nguồn lực lấy lại từ các tài phiệt được sử dụng cho công cuộc này. Nền kinh tế được Putin xây dựng không hề giống với nền kinh tế của Liên Xô và cũng không giống với nền kinh tế được Yeltsin và các “nhà cải cách” của ông xây dựng theo lời khuyên của phương Tây. Trong suốt 22 năm từ năm 2000, tất cả những gì chúng ta nghe được từ phương Tây về nền kinh tế Nga là đó là một nền kinh tế què cụt với nguồn thu chủ yếu dựa vào bán dầu và khí. Chúng ta cũng nghe thấy rằng chính phủ Nga là tham nhũng và họ duy trì quyền lực bằng cách trích một phần nhỏ từ lợi nhuận bán dầu, khí ra để làm phúc lợi mị dân. Phần lớn còn lại từ tiền bán dầu khí rơi vào túi Putin và các đồng đảng của ông. Họ nói rằng sự tăng trưởng của kinh tế Nga hoàn toàn là do giá dầu tăng liên tục kể từ khi Putin lên nắm quyền.
Tuy nhiên các số liệu lại cho thấy tuy giá dầu tăng liên tục trong 10 năm cầm quyền đầu tiên của Putin (2000 tới 2010) nhưng cũng giá dầu đó lại liên tục giảm trong 10 năm tiếp theo (từ 2010 tới 2020) và đạt mức kỷ lục thấp vào năm 2020 trong 50 năm gần đây. Bất chấp giá dầu thay đổi như vậy, nền kinh tế Nga đã không sụp đổ như Liên Xô mà lại còn phát triển. Năm 2023, trong khi vẫn đang tiến hành chiến tranh ở Ukraine và chịu hơn 10 ngàn lệnh cấm vận (sự cấm vận toàn diện và mạnh mẽ hơn nhiều lần những lệnh cấm vận của phương Tây với Liên Xô mà Andropov sợ vào năm 1981) thì nền kinh tế Nga lại tăng trưởng dương. Trong khi đó, nền kinh tế của các nước G7, các nước không hề tham chiến lại suy giảm ở mức báo động. Đây là sự kiện đầu tiên chưa có tiền lệ trong lịch sử kinh tế thế giới.
Chúng ta có thể thấy rằng sau 23 năm cầm quyền, Putin đã làm được điều mà các nhà lãnh đạo Liên Xô không làm được trong những năm 70-80 thế kỷ trước. Đó là tạo ra một nền kinh tế liên tục phát triển và ổn định. Trong 23 năm kể từ khi Putin nắm quyền, các cuộc khủng hoảng kinh tế và sự khan hiếm hàng hóa như thời Liên Xô đã không xảy ra – kể cả trong thời gian Covid khi mà ở các nước phương Tây những kệ hàng hóa trống trơn trong một thời gian ngắn không còn làm ai ngạc nhiên nữa – và thu nhập bình quân hàng năm của người Nga từ 1.700 đô la (năm 2000) lên tới 12.200 đô la (năm 2021).
3.2.2. Thép cho quân đội và bơ cho người dân.
Sai lầm tiếp theo của Liên Xô mà chúng ta đã đề cập là: (ii) “Nguồn lực kinh tế được phân bổ quá nhiều cho quân sự khiến cho các mặt hàng thiết yếu trong nước không đủ và nền kinh tế dân sự không phát triển.” Chúng ta thấy là Putin đã không hề lặp lại sai lầm này của Liên Xô. Sau cuộc chiến tranh với Georgia vào năm 2008, người Nga đã bắt đầu hiện đại hóa quân đội của mình. Ở phần 6 của loạt bài này, tôi đã bàn về các hiện đại hóa của quân đội Nga trong hải và không quân (CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) – Phần 6. (substack.com) và ở phần 7, chúng ta đã nói qua về các cải cách của lục quân Nga (CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) – Phần 7 (substack.com). Nếu đọc các phần này, bạn sẽ có cảm giác là toàn bộ quá trình hiện đại hóa quân đội của Nga là một quá trình nửa vời, với mục tiêu đặt ra vượt quá tầm của khả năng kinh tế. Bản thân tôi cũng đã nghĩ như vậy khi viết 2 phần trên.
Tuy nhiên, khi bắt tay vào viết phần 8 này, tôi chợt nhận ra một điều là trong 10 năm cầm quyền đầu tiên của mình (từ 2000 tới 2010), Putin không hề có thời gian và tiền bạc để xây dựng quân đội của mình. Như ở trên đã nói, việc xây dựng lại nền kinh tế của Nga dưới thời Putin bắt đầu từ “con số âm” và ông phải giành 10 năm đầu tiên để vừa xây dựng kinh tế vừa đấu tranh để lấy lại cho nước Nga các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các cơ sở kinh tế quan trọng nhất đã bị Yeltsin bán rẻ cho các nhà tài phiệt trong nước và nước ngoài. Đây là thời gian mà giá bất động sản ở các khu vực trung tâm của các thành phố lớn ở châu Âu như London, Paris hay Monaco tăng tới chóng mặt vì một dòng tiền khổng lồ được các tỷ phú người Nga rút ra khỏi nước Nga để đối phó với Putin.
Cùng thời gian này, nước Nga vẫn không ngừng có các cuộc xung đột vũ trang và căng thẳng tại các vùng biên giới. Cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ 2 bắt đầu vào năm 2000 và được tuyên bố kết thúc năm 2002. Tuy nhiên, thực tế là các chiến dịch truy quét khủng bố trên lãnh thổ Chechnya chỉ chấm dứt vào năm 2009.
Cùng trong khoảng thời gian 10 năm này, Mỹ và các nước NATO đã gia tăng sự thâm nhập vào chính trị của các thành viên cũ của Liên Xô quanh Nga. Sau cuộc tấn công của Al-Qaeda vào thành phố New York năm 2001, quân đội NATO đã được thiết lập các căn cứ quân sự, hậu cần ở các nước Trung Á, thuộc Liên Xô cũ: Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan, và Uzbekistan. Đây là điều chưa bao giờ xảy ra dưới thời Liên Xô. Cùng với sự có mặt của quân đội NATO ở Trung Á, sườn phía Nam của nước Nga, các hoạt động thúc đẩy “cách mạng màu” được phương Tây tiến hành mạnh mẽ ở các thành viên Liên Xô cũ và ở chính nước Nga. Các cuộc cách mạng màu này đã thành công ở Georgia năm 2003 (với việc Mikheil Saakashvili lên làm tổng thống) và Ukraine năm 2004 (với việc ứng cử viên đã thắng cử Yanukovic buộc phải chấp nhận tổ chức bầu cử lại và ứng cử viên thân Mỹ Viktor Yushchenko trở thành tổng thống). Các cuộc cách mạng màu tương tự cũng diễn ra ở các nước Trung Á có căn cứ quân sự của NATO và chỉ không thành công khi lãnh đạo các quốc gia này, rút kinh nghiệm từ trường hợp Ukraine và Georgia, phản ứng cứng rắn và chấp nhận đổ máu để ngăn chặn phe đối lập.
Putin nhận thấy rằng nước Nga đã bắt đầu bị phương Tây tiến sát phía Tây, Tây Nam và phía Nam (trong bản đồ dưới đây, các quốc gia thuộc Liên Xô cũ bị NATO thâm nhập được kẻ sọc đỏ để cho các bạn dễ nhận biết). Sự áp sát của phương Tây đối với Nga đặc biệt nguy hiểm vì – như các bạn thấy trên bản đồ - nếu như các quốc gia này ngả theo phương Tây và gia nhập NATO, nước Nga sẽ mất toàn bộ lối biển ở phía Tây Nam với biển Đen và biển Caspien trở thành các vùng nước có căn cứ quân sự của NATO. Toàn bộ vùng đất phía Tây Nam từ thành phố Volgagrad của Nga tới vùng Cáp-ca-dơ sẽ nằm trong thế bị bao vây từ 3 phía. Việc mất lối ra biển Đen cũng có nghĩa là NATO sẽ khống chế mọi cảng biển của Nga ngoại trừ các cảng vùng Bắc Cực với 1 nửa thời gian trong năm bị đóng băng.
Một dấu hiệu khác khiến cho người Nga lo lắng về an ninh là: sau khi Liên Xô sụp đổ, về mặt lý thuyết thì nước Mỹ không còn có kẻ thù đáng kể nào nữa, thì ngân sách quốc phòng của Mỹ thay vì bị cắt giảm lại được tăng lên nhanh chóng. Nếu vào năm 1991, năm mà Liên Xô sụp đổ ngân sách quốc phòng của Mỹ là 299 tỷ đô thì vào năm 2021, ngân sách này là 800 tỷ.
Người Nga đã có nhiều biện pháp để ngăn chặn nguy cơ trên. Các biện pháp của Nga trải dài từ các biện pháp kinh tế (Nga có các ưu đãi về kinh tế đối với các quốc gia thân thiện để tránh cho họ ngả về phương Tây) tới sử dụng vũ lực khi cần thiết. Năm 2008, ở Georgia, sau khi đánh bại quân đội của Saakashvili trong cuộc chiến 5 ngày, người Nga đã tiến hành âm thầm một cuộc “cách mạng màu” của mình ở đó và kết quả là Saakashvili thất cử, trở thành tội phạm và phải lưu vong. Ở Ukraine sau khi Yushenko lên nắm quyền năm 2004, người Nga đã dùng các biện pháp kinh tế để giúp cho Yanukovych, ứng cử viên thân Nga trúng cử tổng thống năm 2010. Ở Trung Á, trong khuôn khổ Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể (Collective Security Treaty Organization (CSTO)) và các hỗ trợ tài chính, người Nga đã dần dần đẩy các căn cứ quân sự và hậu cần của NATO ra khỏi các quốc gia này. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài và phải tới năm 2014 thì căn cứ quân sự cuối cùng của Mỹ ở khu vực này mới đóng cửa.
Nếu như nhìn lại 10 năm này, chúng ta sẽ kinh ngạc về những gì Putin đã làm được với nguồn lực rất hạn hẹp vào lúc bắt đầu, năm 2000. Trong 10 năm, Putin đã biến đảng Nước Nga Thống Nhất từ một ô hợp các thành viên rất khác nhau về quan điểm chính trị thành chính đảng mạnh nhất của nước Nga. Trong 10 năm này, ông giành giật lại các nguồn lực quốc gia từ trong tay các nhà tài phiệt rồi phân bổ nó cho việc (i) nâng cao đời sống nhân dân, (ii) tái cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế, (iii) chiến thắng trong cuộc nội chiến ở Chechnya và tái xây dựng lại nước cộng hòa này, (iv) sử dụng nguồn lực rất hữu hạn đó để từng bước khôi phục lại ảnh hưởng của Nga tại các khu vực thuộc Liên Xô cũ vì mục đích an ninh.
Với một nguồn lực bị chia sẻ cho nhiều mục tiêu như vậy nên quân đội Nga trong 10 năm đầu tiên của Putin chỉ được đầu tư chủ yếu cho việc tái cơ cấu lại nhân sự (nâng lương và các điều kiện phúc lợi cho binh sĩ và sỹ quan) chứ không được đầu tư nhiều về vũ khí. Đây chính là lý do mà chúng ta thấy rằng vào năm 2008, khi đội quân của Saakashvili được trang bị và huấn luyện theo tiêu chuẩn NATO tấn công vào Nam Ossetia, quân đội Nga ra trận với các trang thiết bị có từ thời Liên Xô 40 năm trước.
Nói một cách ngắn gọn, trong giai đoạn 10 năm đầu tiên cầm quyền của Putin – “không có thép cho quân đội, nhưng có bơ cho nhân dân”.
Vào năm 2008, dù chiến thắng trong cuộc chiến 5 ngày với Georgia, người Nga nhận thấy rằng các quốc gia tương tự như trường hợp Georgia, một khi đã rơi vào cơn say “hội nhập phương Tây” thì việc đầu tiên họ làm sẽ là tìm cách gia nhập NATO. Để làm thế thì họ sẵn sàng chấp nhận một cuộc chiến tranh để xử lý các “tồn tại” về mặt lãnh thổ - những vùng tuyên bố độc lập của người gốc Nga tại các quốc gia này. Nga đã giành chiến thắng trong cuộc chiến với Georgia, nhưng điều đó chỉ đơn thuần là vì quốc gia này quá nhỏ và binh sĩ Nga đã chiến đấu anh dũng. Câu chuyện sẽ hoàn toàn khác nếu Ukraine đi theo con đường của Georgia vì Ukraine có mọi điều kiện vượt trội so với Georgia (từ dân số, kinh tế, tiềm lực quân sự và vị trí địa lý tiếp giáp với các nước khối NATO). Và đây chính là lý do Putin bắt đầu công cuộc chuẩn bị cho chiến tranh trong tương lai – một cuộc chiến với phương Tây thông qua một quốc gia được ủy nhiệm – như Ukraine.
Trong mười năm tiếp theo, từ 2010 tới 2020, quân đội Nga bước vào cải tổ và hiện đại hóa. Tuy nhiên, do nguồn lực tài chính có hạn, người Nga đã chỉ chú trọng vào một số lĩnh vực quan trọng nhất mà họ cho rằng sẽ thiết yếu trong cuộc chiến tranh trong tương lai. Ở phần 6 và phần 7 của loạt bài này, chúng ta đã bàn về việc cải tổ trong hải quân, không quân và lục quân Nga. Vào thời điểm viết các bài đó, tôi nghĩ rằng các cải tổ của quân đội Nga có vẻ như quá dàn trải và nửa vời. Cách nhìn đó có thể đúng nếu như ta chỉ nhìn thuần túy theo khía cạnh quân sự. Tuy nhiên, vào thời điểm viết bài này, khi nhìn vấn đề quân sự chỉ là một phần trong bàn cờ lớn mà Putin đang chơi thì tôi thay đổi quan điểm. Giờ đây, tôi thấy rằng người Nga đã rất thực tiễn trong việc hiện đại hóa quân đội của mình. Chi tiết của việc này, chúng ta sẽ bàn ở dưới đây, sau khi chúng ta đã nhìn xong thế cờ mà Putin sắp đặt.
Nói một cách ngắn gọn là, để tránh vết xe đổ của Liên bang Xô Viết trong cuộc chạy đua vũ trang, Putin đã làm mọi cách, thậm chí kể cả cắt giảm các chương trình quân sự nếu cần, để việc hiện đại hóa quân đội không tạo thành một gánh nặng cho nền kinh tế rồi dẫn tới sụp đổ như Liên Xô đã làm. Trong thông điệp Liên bang năm 2023, sau khi nước Nga đã tham chiến 1 năm ở Ukraine và phương Tây đã tung ra hết tất cả các đòn trừng phạt nhằm làm cho nước Nga kiệt quệ về kinh tế thì Putin vẫn nói với người dân là vẫn chưa tới lúc mà họ phải lựa chọn giữa bơ trên bàn ăn hay súng đạn cho tiền tuyến.
3.2.3 “Nước Nga chỉ có hai đồng minh: quân đội và hải quân của mình”
Sai lầm thứ 3 của Liên Xô đề cập ở trên là “việc mở rộng các quan hệ đồng minh dựa trên ý thức hệ mà không tính tới lợi ích kinh tế khiến cho các đồng minh của Liên Xô trở thành gánh nặng cả về kinh tế lẫn quân sự chứ không giúp ích gì được khi cần”.
Trong lịch sử nước Nga, kể từ khi Peter Đại đế quyết định hiện đại hóa nước Nga theo mô hình châu Âu vào cuối thế kỷ 17 thì nước Nga luôn tham dự vào chính trị của châu Âu. Sự tham dự đó được thực hiện qua các liên minh về chính trị, kinh tế và quốc gia khác ở châu Âu. Các liên minh này mang lại nhiều lợi ích cho nước Nga (ví dụ sự hợp tác giữa Nga và Đông Phổ trong việc phá vỡ khối thịnh vượng chung Ba Lan – Lithunia (Polish-Lithunia Commonwealth) và ba lần phân chia lãnh thổ nước Ba Lan hoặc các vùng đất tại phía Tây Ukraine được các Sa hoàng sáp nhập vào Nga). Tuy nhiên các liên minh cũng mang lại nhiều thảm họa cho chính nước Nga mà minh chứng rõ rệt nhất là sự thất bại của nước Nga trong Thế chiến Thứ Nhất và sự tiêu vong của vương triều Romanov, một vương triều đã kéo dài 200 năm, vào năm 1917.
Vào cuối thế kỷ 19, khi nhận định về đồng minh của nước Nga, Sa hoàng Alexander Đệ Tam đã nói “nước Nga chỉ có hai đồng minh: đó là quân đội và hải quân của mình”. Câu nói trên được Putin nhắc lại vào năm 2015 trong một cuộc họp báo về tình hình quốc tế. Gần đây nhất, vào tháng 3 năm 2023, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Nga, Maria Zakharova cũng nhắc lại câu này trong một cuộc tranh luận trên truyền hình Nga. Nếu như không nắm được lịch sử cận đại của nước Nga thì chúng ta có thể nghĩ rằng đây là bằng chứng rõ nhất, trực tiếp nhất từ những người lãnh đạo cao nhất của Nga nói về tình trạng cô lập của đất nước họ tới mức họ chỉ còn biết dựa vào sức mạnh quân sự.
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu một chút về lịch sử nước Nga, chúng ta sẽ thấy câu nói này có vai trò quan trọng hàng đầu trong cuộc chiến không tiếng súng của Nga đối với phương Tây hiện nay.
Trước hết, nếu nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy rằng nước Nga Sa hoàng và Liên Xô đều từng có các liên kết, đồng minh trong lịch sử. Có những nét tương đồng trong việc kết đồng minh của nước Nga dưới thời Sa hoàng và Liên Xô.
Điểm giống nhau thứ nhất là cả hai quốc gia, trong thời gian tồn tại của mình, đã kết đồng minh với các quốc gia nhỏ hơn vì vấn đề lý tưởng. Nước Nga Sa hoàng trong suốt 3 thế kỷ từ 18 tới 20 luôn có đồng minh là các quốc gia nhỏ ở khu vực Balkan. Sự gắn kết ở đây dựa trên truyền thống của Chính Thống giáo, theo đó, sau khi đế quốc Byzantine bị sụp đổ năm 1453 thì nước Nga trở thành người kế thừa Byzantine vai trò của người bảo vệ Chính Thống giáo. Tương tự như vậy, Liên Xô, với vai trò là quốc gia đầu tiên có cách mạng vô sản thành công, đã trở thành người bảo trợ cho phong trào vô sản quốc tế.
Điểm giống nhau thứ hai là nước Nga ở cả hai thời kỳ đều có những liên kết đồng minh với các quốc gia lớn khác để có được các lãnh thổ mới.
Điểm giống nhau thứ ba là các đồng minh nhỏ của Nga luôn luôn là một gánh nặng về mặt kinh tế và quân sự. Điều đặc biệt là, cả nước Nga Sa hoàng lẫn Liên Xô đều nhận thấy điều đó nhưng vì lý tưởng, họ vẫn gồng mình để thực hiện các nghĩa vụ của mình. Trong cả hai trường hợp, việc thực hiện nghĩa vụ về tư tưởng này của họ đều dẫn tới sự diệt vong của cả hai quốc gia. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu bởi sự kiện một nhóm dân tộc chủ nghĩa người Serbia đã ám sát thái tử của đế quốc Áo Hung với mục đích là tách các phần đất có người Serbia sinh sống ra khỏi đế quốc này và sáp nhập vào Serbia. Điều này đã dẫn tới việc đế quốc Áo Hung yêu cầu Serbia giải giáp vũ khí trong 48 giờ và để quân Áo-Hung tiến vào. Khi Serbia kêu gọi Nga bảo vệ sự độc lập của mình, Sa hoàng Nicholas Đệ Nhị đã tuyên chiến với Áo-Hung. Rasputin, một thầy tu Chính Thống giáo có những khả năng đặc biệt và thường được giới quý tộc ở Moscow coi là sứ giả của Chúa và được Sa hoàng (và đặc biệt là hoàng hậu Nga) tin tưởng đã báo cho Sa hoàng biết rằng nếu nước Nga tham gia cuộc chiến này thì vương triều Romanov sẽ bị diệt vong. Mặc dù Sa hoàng đã tự chứng kiến rằng tất cả các lời tiên đoán trước đây của Rasputin đều được thực tế chứng minh là đúng, nhưng vì nghĩa vụ của người bảo hộ Chính Thống giáo và người Slavo, nước Nga đã tuyên chiến. Việc tuyên chiến của nước Nga đã buộc nước Đức tuyên bố chiến tranh (vì nghĩa vụ đồng minh với Áo Hung) và điều đó lại dẫn tới việc Anh và Pháp tham chiến vì nghĩa vụ đồng minh với Nga. Ba năm sau khi tuyên chiến, Sa hoàng Nicholas Đệ Nhị phải thoái vị, rồi ông cùng cả gia đình đã bị xử bắn trong cuộc nội chiến của nước Nga diễn ra sau đó.
Trong trường hợp Liên Xô thì đa số các đồng minh nhỏ của quốc gia này cũng tạo ra một gánh nặng lớn cho Liên Xô. Trên thực tế, Liên Xô đã luôn phải hỗ trợ cả về kinh tế lẫn quân sự cho các đồng minh này. Sự hỗ trợ này vắt kiệt sức mạnh kinh tế của Liên Xô và nhiều trường hợp khiến quốc gia này đối đầu trực tiếp (như trường hợp Triều Tiên) hoặc gián tiếp (như trường hợp Việt Nam, Ai Cập, Angola) về quân sự với phương Tây. Sự hỗ trợ cho các đồng minh này đã trở thành gánh nặng tới mức Andropov, như đã nêu ở trên, khi nói về việc có đưa quân vào Ba Lan để cứu chính quyền Ba Lan vào năm 1981 hay không, đã phát biểu rằng phải đặt sự phát triển của Liên Xô lên trên hết và nếu Ba Lan phải bị mất về tay Công đoàn Đoàn kết thì cũng đành phải chấp nhận. (Tôi xin lưu ý rằng có 3 quốc gia từng là đồng minh của Liên Xô trước đây không thuộc trường hợp nêu trên là Trung Quốc, Việt Nam và Cuba. Về mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam, Trung Quốc và Nga, tôi sẽ bàn ở dưới đây).
Điểm giống nhau thứ tư trong việc liên kết đồng minh của nước Nga Sa hoàng và Liên Xô là bất kể đồng minh của họ là ai, vào thời điểm mà sự tồn vong của quốc gia thì họ cũng chỉ có thể trông đợi vào sức mạnh của chính quốc gia, dân tộc mình. Và lịch sử cho thấy, với một lãnh thổ lớn nhất và nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu nhất thế giới, một khi nước Nga bị xâm lược thì chỉ có sức mạnh quân sự chứ không phải các hoạt động ngoại giao mới có thể bảo tồn được nước Nga. Những kẻ thù của nước Nga – vì các nguồn tài nguyên gần như vô tận của nó – sẽ không dừng bước bởi các hiệp định, các thỏa hiệp ngoại giao.
Đó là lý do mà Sa hoàng Alexander Đệ Tam, người mà một mặt đã tạo ra mối liên minh với Anh, Pháp và hòa hoãn với Đức (từ đó tạo ra một nền hòa bình cho châu Âu trong 30 năm cuối của thế kỷ 19) đã nói rằng đồng minh thực sự của nước Nga là quân đội và hải quân của nó.
Vậy thì Putin đã làm gì để vừa tránh được sai lầm của nước Nga Sa hoàng và Liên Xô trong việc liên minh quốc tế vừa tránh cho nước Nga bị cô lập?
Sau khi trở thành Tổng thống Nga, Putin đã bắt đầu các hoạt động đối ngoại một cách rất thực dụng. Nếu như trước đây, Liên Xô dùng hệ tư tưởng cộng sản để tạo ra mối liên kết về tinh thần với các quốc gia khác thì nước Nga của Putin (với việc quay trở lại với chủ nghĩa dân tộc) đã loại bỏ hoàn toàn cách tiếp cận này. Là một người thực dụng, Putin hướng mọi quan hệ quốc tế của Nga theo hướng có lợi ích về kinh tế cho cả hai bên, trong đó, lợi ích của nước Nga được đặt lên hàng đầu. Vũ khí, một trong những sản phẩm có thế mạnh hàng đầu của Liên Xô đã không còn được viện trợ không hoàn lại hay bán rẻ để tạo quan hệ nữa. Putin biến vũ khí thành một loại hàng hóa và xuất khẩu vũ khí thành một nguồn thu lớn cho nước Nga. Vũ khí Nga, dưới thời Putin, không còn là một loại hàng có giá rẻ mạt mà được bán với giá theo thị trường. Người Nga bán vũ khí cho tất cả những ai không phải là kẻ thù trực tiếp của Nga và có tiền. Thậm chí Kalashnikov còn bán cả các loại súng AK bán tự động và súng shotgun Saiga vào thị trường Mỹ. Sự phát triển mạnh mẽ của xuất khẩu vũ khí Nga đã buộc Mỹ phải ngăn chặn bằng các biện pháp chính trị (ví dụ như việc gấy sức ép với Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ khi các quốc gia này mua tên lửa phòng không S300 và S400 của Nga).
Hoạt động xuất khẩu vũ khí này của Nga đã hé lộ một phần chính sách đối ngoại của Putin. Chính sách đối ngoại đó bao gồm 4 yếu tố sau:
(i) xác định lại khái niệm đối tác/ đồng minh;
(ii) mọi quan hệ đối tác/ đồng minh phải có lợi giữa hai bên về mặt kinh tế;
(iii) không áp đặt mô hình chính trị kinh tế của mình lên các đối tác và không trở thành một sen đầm quốc tế;
(iv) sẵn sàng hợp tác với kẻ thù nếu như việc hợp tác đó phù hợp với các lợi ích cốt lõi của Nga và cương quyết không hợp tác với “kẻ thù của kẻ thù” nếu việc hợp tác đó trái với các lợi ích cốt lõi.
Việc xác định lại khái niệm đối tác/ đồng minh của Nga thể hiện rõ nhất trong việc bán vũ khí.
Trong thời gian tồn tại của mình, nếu muốn một quốc gia là đồng mình, Liên Xô sẽ nói với họ như sau: “hãy đi cùng chúng tôi. Chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, xã hội cộng sản. Nếu như có kẻ nào muốn ngăn trở, làm hại bạn thì chúng tôi sẽ trao cho bạn vũ khí để bảo vệ mình”. Trong khi đó Putin sẽ nói như sau “hãy mua vũ khí của chúng tôi nếu như bạn có khúc mắc gì với phương Tây và bạn muốn yên tâm là vũ khí trong tay bạn sẽ hoạt động tốt khi bạn cần chứ không phải lo rằng nó sẽ không hoạt động khi phương Tây chưa cho phép”. Liên Xô tìm kiếm những người cùng chí hướng cộng sản với mình và cấp miễn phí vũ khí cho họ. Putin tìm kiếm những người có chung mối đe dọa là phương Tây và bán vũ khí cho họ.
Cách tiếp cận này của Putin đã khiến cho Nga có một mối quan hệ rộng và có lợi về kinh tế hơn nhiều so với Liên Xô. Trước đây, muốn có vũ khí Liên Xô thì anh phải là một người cộng sản hoặc có xu hướng xã hội chủ nghĩa. Giờ đây, muốn có vũ khí Nga thì chỉ cần anh có tiền, e ngại phương Tây hoặc có lợi về mặt địa chính trị cho Nga (ví dụ như trường hợp Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ đều là thành viên của NATO nhưng lại có ích cho Nga về mặt địa chính trị). Đây là một điểm khác biệt đặc biệt quan trọng vì nó xác định tính chất của đồng minh của nước Nga.
Nếu dưới thời Liên Xô thì đồng minh là những người chung lý tưởng (mà không cần tính tới tiềm lực kinh tế) thì dưới thời Putin đồng minh có nghĩa là người nào có chung (i) kẻ thù, (ii) nỗi lo, và (iii) lợi ích (ngắn hạn hoặc dài hạn). Tuy nhiên, dù có cả 3 yếu tố trên thì Nga cũng sẽ chỉ chọn đồng minh nếu quốc gia đó có khả năng tạo ra lợi ích kinh tế cho Nga. Cách nhìn nhận đồng minh này đã dẫn tới một hệ quả hoàn toàn khác biệt giữa Liên Xô và Nga. Hệ quả của sự mở rộng đồng minh của Liên Xô là gánh nặng về kinh tế và quân sự thì hệ quả với nước Nga là ngược lại: nước Nga (i) có mối quan hệ đối tác nhiều hơn hẳn Liên Xô và (ii) luôn luôn thu được lợi ích trong mọi mối quan hệ với đồng minh.
Khác với Liên Xô, nước Nga của Putin không cố gắng can thiệp trực tiếp vào nền chính trị của các quốc gia đồng minh cũng như cố gắng áp đặt hoặc thuyết phục họ phải theo mô hình chính trị, kinh tế của mình. Trong quá khứ, để thuyết phục một quốc gia đi theo mô hình kinh tế, chính trị của mình, Liên Xô buộc phải viện trợ kinh tế cho quốc gia đó và khi những đầu tư kinh tế đó không đủ để giữ quốc gia đó trong quỹ đạo của mình, họ buộc phải can thiệp quân sự (như trong trường hợp Hungary 1956, Tiệp Khắc 1968). Tuy nhiên, có hai trường hợp mà nước Nga của Putin đặc biệt lưu ý. Đó là Trung Quốc và Việt Nam. Cả hai quốc gia này đều từng đi theo mô hình kinh tế chính trị của Liên Xô nhưng sau đó thì đã thay đổi và tự tìm kiếm mô hình phát triển riêng của mình.
Với Trung Quốc thì sự thay đổi đó bắt đầu từ việc Mao chống phong trào xét lại của Khrushev.
Với Việt Nam thì sự thay đổi đó bắt đầu vào thập niên 1980s, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam đã thắng lợi và sự giúp đỡ cho Việt Nam được đặt xuống hàng thứ yếu so với các viện trợ của Liên Xô cho các nước XHCN Đông Âu (cần lưu ý là chính trong thời kỳ này các phong trào chống đối ở Đông Âu mà ví dụ điển hình nhất là phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan đã bắt đầu phát triển và sẽ dẫn tới sự sụp đổ của khối này 10 năm sau đó). Khi nhận ra rằng sau nhà máy thủy điện Hòa Bình thì Liên Xô sẽ không còn có các khoản viện trợ kinh tế nữa thì những người cộng sản Việt Nam đã tiến hành các cải cách theo cách riêng của mình và chính thức công bố nó năm 1986 – một năm trước khi Gorbachev phát biểu trước Trung ương Đảng CS Liên Xô về việc cần phải tiến hành đổi mới. Trong cuộc gặp cuối cùng giữa Gorbachev và tổng bí Đảng CS Việt Nam, Nguyễn Văn Linh ở Đức năm 1989, Gorbachev đã ngạc nhiên một cách ngậm ngùi khi được biết rằng Việt Nam, chỉ trong vòng 3 năm kể từ khi đổi mới, đã chuyển từ một quốc gia thiếu ăn thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
(Về cuộc gặp này, có nhiều người đã tin vào lời của một trí thức Việt Nam rằng Gorbachev đã rất coi thường tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và tiếp ông trong một phòng ăn còn chưa kịp dọn. Nhà báo Phan Việt Hùng đã nghiên cứu rõ về vấn đề này và chỉ ra rằng đây là một sự lừa dối. Vị trí thức đó sau này đã xin lỗi về những phát biểu của mình. Link bài viết của nhà báo Phan Việt Hùng ở đây (2) Phan Việt Hùng - SỰ THẬT VỀ CUỘC GẶP GIỮA M.GORBACHEV VÀ TBT... | Facebook ).
Nước Nga nhận thấy rằng, trong khi các quốc gia đồng minh được Liên Xô hỗ trợ nhiều nhất và toàn tâm cả về vật chất lẫn quân sự (như Ai Cập trong giai đoạn từ 1965 tới 1975, hay Đông Đức và Ba Lan – các quốc gia mà Liên Xô thực sự đã hỗ trợ trực tiếp xây dựng lại đất nước bị tàn phá trong thế chiến thứ hai) thì sau khi Liên Xô sụp đổ lại trở thành những quốc gia đối nghịch với Nga nhất. Chúng ta thấy rõ hiện nay nguồn hỗ trợ tài chính lớn thứ 2 sau Mỹ cho Ukraine chính là từ Đức. Còn Ba Lan là quốc gia hiện đang có nhiều lính đánh thuê nhất chiến đấu ở Ukraine. Quốc gia này cũng là nước đã tuyên bố tăng thêm 200 ngàn người cho quân đội để đối phó với Nga và là người đòi khối NATO phải họp để bàn về việc sử dụng cơ chế an ninh tập thể theo điều 5 của hiến chương NATO khi Ukraine bắn tên lửa S300 vào đất Ba Lan và vu cho đó là tên lửa của Nga.
Sự thành công của Trung Quốc và Việt Nam cho thấy rõ cách thức mà Liên Xô áp đặt/thúc đẩy các đồng minh sử dụng cơ chế kinh tế và chính trị của mình là sai lầm và đã khiến cho cả Liên Xô lẫn các đồng minh rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Trong khi đó, khoảng trong vòng 40 năm sau khi tiến hành đổi mới Trung Quốc đã vươn lên thành một quốc gia có nền kinh tế thứ 2 thế giới (và sẽ vượt Mỹ vào năm 2030). Còn Việt Nam, nếu so sánh với Ukraine, quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự và công nghiệp đứng thứ hai của Liên Xô thì sự thay đổi cũng thực sự là đáng kinh ngạc. Vào năm 1990, GDP của Việt Nam bằng khoảng 1/13 GDP của Ukraine (Việt Nam 6,4 tỷ đô, Ukraine 81,4 tỷ đô) thì 30 năm sau, vào năm 2021 GDP của Việt Nam gấp 1,8 lần GDP của Ukraine (Việt Nam 366 tỷ đô và Ukraine 200 tỷ đô). Nếu so sánh Việt Nam với các quốc gia thành viên của Liên Xô cũ khác ngoài Nga thì kết quả cũng sẽ ngoạn mục như việc so sánh với Ukraine. Nếu nói một cách hình ảnh thì vào năm 1990, nếu so sánh với GDP của các nước cộng hòa thuộc Liên Xô thì Việt Nam đứng ở vị trí cuối cùng. Thế nhưng vào năm 2021, GDP của Việt Nam chỉ đứng sau Nga và cao hơn tất cả các nước cộng hòa cũ còn lại của Liên Xô.
Chính vì lý do này mà Việt Nam và Trung Quốc được Nga rất coi trọng – không phải với tư cách một cựu đồng minh của Liên Xô – mà là với tư cách các quốc gia có hệ thống chính trị và điều hành kinh tế giống Liên Xô (nhưng yếu hơn rất nhiều về mọi mặt) nhưng đã phát triển thành công trong khi Liên Xô thì sụp đổ.
Tôi đã rất ngạc nhiên vì rất ít người Việt Nam lẫn những người ở các quốc gia thuộc Liên Xô cũ nhận ra sự phát triển vượt bậc của Việt Nam. Vào tháng 3/2022, bà Nataliya Zhynkina, đại biện lâm thời của Ukraine tại Việt Nam, thất vọng vì lá phiếu biểu quyết của Việt Nam tại Đại hội đồng Liên hợp quốc liên quan tới chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga đã nói rằng bà hiểu rằng “Việt Nam là một nước nhỏ nên phải ...” Phát biểu của bà ta và các phát biểu tương tự của đại diện của một loạt nước châu Âu khiến tôi ngạc nhiên tới mức sững sờ rằng có lẽ chỉ có các nhà ngoại giao của Nga thực sự hiểu được sự phát triển của Việt Nam trong 30 năm qua (và do đó, họ chưa bao giờ có một lời khuyên nào với Việt Nam kiểu “vì là nước nhỏ nên Việt Nam cần phải làm a,b,c...”). Người thứ hai nhận ra vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế là thủ tướng Đức, Olaf Scholz. Ngày 15/2/2023, khi phát biểu tại Hội nghị Giải pháp Toàn cầu (Global Solutions Summit) đã nói “... trong khi đó các quốc gia có ảnh hưởng trên thế giới như Ấn Độ, Việt Nam và Nam Phi đã không chỉ trích Nga vì họ tin rằng các nguyên tắc quốc tế đã không được áp dụng công bằng...” Đây là lần đầu tiên một nguyên thủ quốc gia G7 công khai thừa nhận vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế như là một quốc gia có ảnh hưởng và trong hàng ngũ các quốc gia lớn khác là Ấn Độ và Nam Phi.
Tôi nêu câu chuyện Việt Nam ở trên để cho thấy rằng: trong khi Nga đã thấy sự thay đổi của tương quan lực lượng trên trường quốc tế từ 20 năm trước (và từ đó thay đổi tận gốc đường lối ngoại giao của mình) thì các nước phương Tây và các quốc gia bám chân họ như Ukraine vẫn không nhận ra điều đó kể cả khi chiến tranh Ukraine đã nổ ra (ví dụ như chuyện cô đại biện Ukraine nhìn nhận Việt Nam là một nước nhỏ nên không dám nói thật). Chỉ 1 năm sau cuộc chiến, sau khi đã bắt đầu mỏi mệt vì các hệ lụy của cuộc chiến tranh, phương Tây mới bắt đầu nhận ra rằng các nước có ảnh hưởng như Ấn Độ, Việt Nam và Nam Phi không phản đối vì sợ Nga mà vì họ đã nhận ra trật tự thế giới mà phương Tây đang duy trì là một trật tự không công bằng và đầy rẫy tiêu chuẩn kép. Ở đây chúng ta thấy sự nhận thức lệch nhau hẳn 20 năm giữa Nga và phương Tây về chính sách ngoại giao.
Tôi nghĩ rằng bài học từ mối quan hệ giữa Liên Xô với Việt Nam và Trung Quốc đã khiến cho nước Nga thay đổi hoàn toàn cách Nga quan hệ với các quốc gia thân thiện/đồng minh dưới thời Putin. Chúng ta thấy rằng nước Nga không cử bất cứ đoàn chuyên gia/cố vấn tới quốc gia nào để hướng dẫn họ làm theo mô hình của Nga như cách Liên Xô làm trước đây. Mọi quan hệ hợp tác giữa Nga với các quốc gia khác đều dựa trên nguyên tắc cả hai bên đều có lợi (về chính trị, kinh tế hay quân sự thì tùy nhu cầu của mỗi bên).
Nước Nga cũng khôn khéo đứng ngoài các cuộc tranh chấp hay mâu thuẫn giữa các quốc gia và không những thế, trong một số trường hợp duy trì quan hệ cả về kinh tế lẫn quân sự với cả hai quốc gia đang có mâu thuẫn. Một ví dụ điển hình là mối quan hệ giữa Ấn Độ - Trung Quốc liên quan tới tranh chấp lãnh thổ trên bộ và Việt Nam – Trung Quốc liên quan tới Biển Đông. Trong hai nhóm quan hệ này, Nga vẫn giữ được sự hợp tác với cả 3 quốc gia và thậm chí là người cung cấp vũ khí chính cho cả 2 bên đang có mâu thuẫn.
Chính cách thức tiếp cận mới này của Nga đã khiến cho họ có một số lượng đồng minh/đối tác lớn hơn thời Liên Xô rất nhiều và các đối tác/ đồng minh này có các cơ cấu kinh tế-chính trị khác nhau. Các đồng minh/đối tác của Nga giờ đây trải dài từ các nước cộng sản từng là đồng minh của Liên Xô tới các nước kinh tế mới nổi, các nước châu Phi, Trung Đông, Mỹ La-tinh; các quốc gia Hồi giáo, Ấn độ giáo, hay vô thần.
Khía cạnh thứ tư của việc hợp tác của Nga là họ sẵn sàng hợp tác với cả các đối thủ của chính mình nếu như việc hợp tác đó phù hợp với các giá trị cốt lõi của nước Nga. Ngược lại, họ cương quyết không hợp tác với “kẻ thù của kẻ thù” nếu như việc hợp tác đó trái lại với lợi ích cốt lõi của Nga. Vào năm 2000, khi các cuộc đánh bom khủng bố của các phần tử ly khai Chechnya diễn ra ở một loạt thành phố lớn của Nga và dẫn tới cuộc chiến Chechnya lần 2, Nga đã xác định chủ nghĩa khủng bố là đối tượng không thể đàm phán và phải bị loại trừ. Chính vì vậy, khi cuộc tấn công ngày 9/11/2001 xảy ra ở Mỹ, Nga đã ủng hộ việc các nước cộng hòa ở Trung Á cho phép Mỹ mở các căn cứ quân sự để tấn công Taliban tại Apghanistan. Một ví dụ khác là việc Putin hợp tác với Akhmad Kadyrov, giáo trưởng hồi giáo của Chechnya, người lãnh đạo tinh thần của phe ly khai Chechen. Kadyrov là người chiến đấu cho sự độc lập của Chechnya khỏi Nga. Tuy nhiên ông cương quyết không ủng hộ việc tấn công vào thường dân Nga bằng các hành động khủng bố. Trong cuộc chiến Chechnya lần thứ 2, khi nhận thấy các thành phần Hồi giáo Wahhabi (lực lượng Hồi giáo cực đoan được phương Tây tài trợ và là nòng cốt của các Mujahideen chống lại Liên Xô) đã kiểm soát phong trào đòi độc lập của Chechnya và đang dần biến Chechnya thành một bãi chiến trường để tiêu hao Nga thì ông chuyển sang ủng hộ Liên bang Nga. Putin đã chấp nhận ông là tổng thống của Chechnya trong thành phần liên bang Nga và trao cho nước cộng hòa này các quyền tự chủ rất lớn. Điều này đã khiến cho những người lính Chechen của con trai ông, 20 năm sau khi Akhmad Kadyrov bị ám sát, trở thành những người lính xung kích hàng đầu của Nga trong vụ công phá thành Mariupol trong cuộc chiến Ukraine.
Nói một cách ngắn gọn, nước Nga hiểu rõ rằng không một đồng minh nào sẽ chiến đấu hộ thay cho họ để bảo vệ sự sống còn của nước Nga hay các giá trị, lợi ích cốt lõi của nó. Chính vì thế mà cả Putin lẫn Zakharovka đều nói với người Nga rằng, vào thời điểm sống còn của nước Nga thì chỉ có “hải quân và quân đội” (nói một cách chính xác là lực lượng vũ trang) của Nga mới chiến đấu cho họ. Nước Nga cũng áp dụng một đường lối ngoại giao đa phương và dựa trên nguyên tắc cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nhờ các chính sách này mà các mối liên kết đối tác/ đồng minh của Nga dưới thời Putin mở rộng và có thực chất hơn (mang lại lợi ích kinh tế cho Nga chứ không còn là một gánh nặng).
3.2.4 Sự phụ thuộc của Nga vào nguồn thu từ xuất khẩu năng lượng và quặng thô
Nước Nga hiện nay, cũng như Liên Xô trước kia, có một ngân sách nhà nước phụ thuộc vào nguồn thu từ xuất khẩu năng lượng: dầu thô, khí đốt và quặng thô. Đó là điểm yếu của Nga mà các nước phương Tây đều nhằm tới để tấn công trong trường hợp có đối đầu trực tiếp với Nga. Để kiểm soát được con gấu Nga trong tương lai, phương Tây đã lợi dụng thời kỳ hỗn loạn sau khi Liên Xô sụp đổ để cài vào những “chốt chặn” về kinh tế khiến cho con gấu khó có thể vùng vẫy trong tương lai. Các chốt chặn này được thiết kế với nhiều lớp và chúng ta sẽ xem xét dưới đây:
3.2.4.1 Các lớp chốt chặn:
Lớp thứ nhất: phá hủy nền công nghiệp sản xuất và tăng sự phụ thuộc vào dầu khí và nguyên liệu thô
Trong thập niên 90s, tổng thống Yeltsin đã tiến hành các cuộc “cải cách” đối với toàn bộ hệ thống kinh tế Nga dưới sự “cố vấn” của các chuyên gia phương Tây.
Sau 30 năm nhìn lại thì chúng ta thấy rằng các chương trình cải cách kinh tế này thực ra chỉ làm trầm trọng thêm các vấn đề của nền kinh tế Nga trong khi đó mang lại một lượng khổng lồ lợi nhuận cho các nhà đầu tư phương Tây và các nhà tài phiệt Nga. Nguồn tiền thu được của các nhà tài phiệt Nga sau đó lại được chuyển qua phương Tây để đầu tư vào bất động sản và các tài sản khác ở đó chứ không để lại đầu tư cho nền kinh tế Nga.
Việc tư nhân hóa được tiến hành ở mọi ngành công nghiệp (trừ công nghiệp quốc phòng) và với tất cả các doanh nghiệp nhà nước với mục tiêu là tạo ra một nền kinh tế cạnh tranh không có sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, 10 năm sau khi thực hiện chính sách này, người Nga nhận ra rằng cả sự phát triển của các doanh nghiệp phục vụ kinh tế dân sự trong nước đã không diễn ra. Các nhà đầu tư nước ngoài mua các doanh nghiệp này để kết liễu các thương hiệu Liên Xô/Nga và thay vì việc đầu tư nâng cao năng lực sản xuất thì họ biến nó hành cách cơ sở gia công và nhập khẩu hàng hóa phương Tây. Khi nhìn lại thì người Nga phát hiện ra rằng sau tư nhân hóa thì họ đánh mất luôn cả một nền sản xuất nội địa (tuy không hiệu quả nhưng vẫn là sản xuất) để đổi lấy một hệ thống các công ty lắp ráp và nhập khẩu. Trong khi đó, các doanh nghiệp không bị xóa sổ và thực sự được đầu tư để tăng sản xuất lại là các doanh nghiệp gắn liền với sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên: dầu, khí đốt, các mỏ kim loại... Thay vì việc phải mua số các nguyên liệu này với giá đắt thì bằng việc sở hữu các doanh nghiệp này các nhà đầu tư phương Tây có thể sử dụng quyền chủ sở hữu để ký các hợp đồng mua với giá ưu đãi dài hạn với các doanh nghiệp khác ở nước ngoài của mình. Hoạt động chuyển giá tinh vi này dẫn tới thiệt hại lớn cho nước Nga. Hơn thế nữa, ngay cả với nguồn thu đã bị khéo léo cắt xén như vậy, thì các doanh nghiệp phương Tây vẫn tiếp tục cắt vào phần thu nhập của nước Nga thông qua nhận tiền cổ tức. Rất ít người biết rằng ngay vào thời điểm này, sau khi cuộc chiến đã nổ ra hơn 1 năm và có hơn 10 ngàn lệnh trừng phạt, cấm vận với Nga thì công ty dầu mỏ lớn nhất của Anh, BP, vẫn sở hữu 19% cổ phần trong Rosnet, công ty dầu khí lớn nhất của Nga và thu hàng tỷ đô la cổ tức từ các hoạt động của công ty này. Chính quyền Ukraine sẵn sàng chỉ mặt mọi quốc gia ngoài khối phương Tây và nói rằng việc họ kiếm lợi nhuận trên kinh doanh dầu mỏ của Nga là việc vô đạo đức vì kiếm tiền trên máu người Ukraine. Tuy nhiên, Ukraine chưa bao giờ dám hé răng chỉ trích một lần nào các công ty dầu mỏ phương Tây đang sở hữu cổ phần trong ngành công nghiệp dầu khí của Nga như trường hợp BP nói trên.
Nói một cách ngắn gọn là chương trình tư nhân hóa của tổng thống Yeltsin đã khiến cho nước Nga mất đi một phần lớn năng lực sản xuất dân sự và trở nên phụ thuộc vào nguồn hàng hóa nhập khẩu. Việc nhập khẩu hàng hóa này sẽ phải trông vào nguồn thu từ xuất khẩu năng lượng và quặng thô. Nguồn thu từ năng lượng này lại bị phương Tây cắt giảm bằng cách sở hữu các doanh nghiệp có các mỏ và rút lời qua việc mua ép giá bán sản phẩm và thu cổ tức. Điều này có nghĩa là, nếu không có các biện pháp ngăn chặn, nước Nga sẽ phụ thuộc vào nguồn thu từ năng lượng và quặng thô còn hơn cả Liên Xô.
Lớp chặn chốt thứ hai là cơ chế mua bán dầu mỏ và thương mại quốc tế bằng đồng đô la Mỹ trên thị trường quốc tế
Sau khi Yeltsin đã “tái cấu trúc” nền kinh tế Nga theo sự cố vấn của các chuyên gia phương Tây khiến cho quốc gia phụ thuộc nhiều hơn vào xuất khẩu năng lượng thì nước Nga rơi vào một cơ chế kiểm soát toàn cầu do Mỹ đã dày công tạo ra trước đó. Cơ chế này là việc thị trường dầu và khí và đại đa số hoạt động thương mại trên thế giới chủ yếu được mua bán bằng đồng đô la Mỹ. Cơ chế này mới nhìn thì rất có lợi cho hoạt động thương mại quốc tế vì các thương nhân không phải tính toán phức tạp việc quy đổi tỷ giữa giữa các cặp đồng tiền khác nhau. (ví dụ quốc gia A muốn bán dầu để thu đô la Mỹ rồi chuyển đổi từ đô la Mỹ ra đồng Yên để mua hàng từ Nhật sẽ phải tính toán 3 cặp tỷ giá: (i) tỷ giá tiền quốc gia A/USD và tỷ giá tiền quốc gia A/Yên đồng thời phải tham chiếu đến tỷ giá USD/Yên để xác định giá bán – mua sao cho lợi nhất). Tuy nhiên điều này sẽ khiến cho nước Nga gần như phụ thuộc hoàn toàn vào đồng đô la Mỹ.
Sau khi bán dầu khí bằng đồng đô la Mỹ thì nước Nga sẽ phải dùng nó để nhập khẩu và làm tài sản dự trữ. Điều này sẽ khiến cho giá trị tài sản dự trữ của Nga sẽ bị chi phối không phải chỉ bởi vì quan hệ cung cầu của dầu mỏ mà còn bởi các chính sách tài chính của Mỹ. Ví dụ, nếu nước Nga có dự trữ ngoại hối là 1000 tỷ đô mà trong năm đó đồng đô la Mỹ mất giá 5% thì có nghĩa là khối tài sản dự trữ của Nga sẽ tự nhiên giảm đi 50 tỷ đô. Để tránh điều đó, Nga (và các quốc gia khác) thường sẽ phải chọn mua trái phiếu chính phủ Mỹ để lấy lãi (vì trái phiếu này được cho là an toàn). Nếu như có trường hợp đối đầu giữa Mỹ và Nga, người Mỹ có thể sử dụng các biện pháp cấm vận để vô hiệu hóa toàn bộ số tài sản dự trữ bằng đô la của Nga. Điều này sẽ dẫn tới việc nước Nga, dù có dự trữ nhưng sẽ không đổi nó ra thành các loại tiền khác để chi tiêu cho chính phủ hoặc dùng nó để nhập khẩu hàng hóa. Và với một nền kinh tế được “tư vấn, thiết kế” yếu về sản xuất và nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của xã hội lại phụ thuộc vào nhập khẩu thì điều này sẽ dẫn tới 1 cuộc khủng hoảng kép – vừa không có nguồn thu, vừa không có hàng hóa để đáp ứng cho xã hội. Và như vậy sự sụp đổ của Liên Xô sẽ lại tái diễn. Nói một cách hình ảnh là con người có thể chết khát khi đang trên đại dương thì một nền kinh tế không được cơ cấu hợp lý sẽ phá sản ngay trên đống tài sản dự trữ bằng đồng đô la của mình.
Lớp chốt chặn thứ ba: hệ thống thanh toán quốc tế
Nếu lớp chốt chặn thứ hai khiến cho nguồn dự trữ của Nga phụ thuộc vào đồng đô la Mỹ thì chốt chặn thứ ba là hệ thống thanh toán quốc tế. Nếu loại trừ Nga ra khỏi hệ thống thanh toán quốc tế này thì dù có tiền, Nga cũng không thể dùng nó để chi tiêu.
Thực tế là Mỹ đã áp dụng các biện pháp này hai lần. Lần thứ nhất là vào năm 2014, khi Nga chiếm Crimea, Mỹ và EU đã cấm vận hàng loạt các doanh nghiệp đóng góp hàng đầu cho ngân sách Nga. Các hoạt động cấm vận này khiến cho tất cả các tổ chức của Mỹ và châu Âu không được buôn bán với các công ty này. Các biện pháp trừng phạt cũng sẽ được áp dụng với các công ty, các quốc gia khác nếu buôn bán với các công ty trong danh sách cấm vận. Điều này nhằm chặn nguồn thu nguồn thu cho Nga cũng như khả năng chuyển đổi dự trữ của Nga ra các mặt hàng khác thông qua các công ty này. Sau đó, để gia tăng mức độ trừng phạt, các ngân hàng lớn nhất của Nga cũng rơi vào danh sách cấm vận. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như các cá nhân người Nga cũng sẽ chịu cấm vận vì nếu như họ có đi ra nước ngoài thì ngân hàng của họ cũng không thể thanh toán cho các khoản chi ở nước ngoài của họ (dù rằng họ có tiền đô trong tài khoản).
Lần thứ hai mà người Mỹ áp dụng và thực chất là đẩy việc cấm vận lên mức kịch khung, không còn gì hơn nữa là vào năm 2022, khi cuộc chiến Ukraine nổ ra. Mỹ và EU đã cắt Nga ra khỏi hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT. Tôi xin giải thích một cách ngắn gọn về hệ thống SWIFT như sau. Mỗi ngày trên thế giới có hàng tỷ giao dịch quốc tế khác nhau từ vài đô la mua hàng trên Amazon tới hàng trăm triệu đô la mua dầu, khí. Các giao dịch này tuy được thực hiện bởi hàng ngàn ngân hàng nhưng đại đa số các ngân hàng không làm riêng rẽ với nhau mà tiến hành thông qua một hệ thống trung tâm thanh toán tên là SWIFT. Có thể lấy một ví dụ là mỗi ngày có hàng tỷ người di chuyển (ứng với hàng tỷ giao dịch). Những người này đều di chuyển trên các đoàn tàu của các hãng khác nhau (các ngân hàng). Tuy nhiên, dù bạn xuất phát từ đâu thì tất cả các đoàn tàu này đều phải về một nhà ga trung tâm rồi từ đó các cá nhân mới có thể chuyển tàu ở ga trung tâm đó để sang một đoàn tàu khác, tới địa điểm bạn muốn tới. Và nhà ga trung tâm đó là hệ thống SWIFT. Vào năm 2022, Mỹ và EU quyết định rằng tất cả các đoàn tàu của các hãng tàu Nga hoặc các đoàn tàu xuất phát từ Nga đều sẽ không được vào nhà ga trung tâm SWIFT. Và điều đó có nghĩa là làm dừng ngay lập tức mọi hoạt động thanh toán quốc tế của Nga. Điều này đã dẫn tới một sự kiện nực cười là các khoản trái phiếu đến hạn của chính phủ Nga, dù Nga có dư tiền đô để trả nhưng đã không được thanh toán vì họ không thể chuyển tiền qua hệ thống SWIFT – và hàng loạt báo phương Tây đăng đăng tiêu đề lớn là chính phủ Nga đã không thể trả được nợ đến hạn (mà không nói nguyên nhân nhằm làm cho người đọc hiểu lầm là nền kinh tế Nga đã bắt đầu sụp đổ vì chiến tranh).
Nói một cách ngắn gọn, phương Tây đã sử dụng rất nhiều biện pháp từ “hỗ trợ, tư vấn” để khiến cho nền kinh tế Nga trở nên què cụt và phụ thuộc vào nguồn thu từ dầu khí còn hơn cả Liên Xô. Sau đó, họ tìm cách bòn rút nguồn thu này thông qua việc nắm cổ phần các doanh nghiệp trong các lĩnh vực tạo ra nguồn thu này. Tiếp đó, cơ chế thương mại và tài chính toàn cầu do phương Tây chi phối sẽ khiến cho những dự trữ mà Nga thu được trở nên phụ thuộc vào các chính sách tài chính của phương Tây vì nguồn dự trữ đó chủ yếu là đồng đô la. Cuối cùng, nếu nước Nga không vâng lời thì các biện pháp cấm vận sẽ khiến cho nước Nga chết đói trên chính đống của cải dự trữ của mình bằng cách cắt nó ra khỏi hệ thống thanh toán quốc tế.
Ở phần tiếp theo chúng ta sẽ xem xét sự đối phó của Putin.
3.2.4.2 Cách đối phó của Putin
Trong 10 năm đầu tiên cầm quyền, hoạt động điều hành kinh tế của Putin gồm có 5 phần chính: (i) lấy lại các nguồn lực cơ bản tối quan trọng cho phát triển kinh tế đã lọt vào tay các tư bản tài phiệt nước ngoài và trong nước, (ii) loại trừ sự ảnh hưởng của các tài phiệt và nước ngoài lên chính sách nhà nước, (iii) khuyến khích phát triển sản xuất trong nước để thay thế nhập khẩu, (iv) đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu, (v) các biện pháp đối phó với các “chốt chặn” của phương Tây nêu trên.
Đầu tiên, chúng ta thấy rằng trong giai đoạn 10 năm (2000-2010) Putin đã tiến hành hàng loạt các hoạt động nhằm lấy lại tài sản cho nước Nga. Các hoạt động của ông pha lẫn giữa phong cách một người từng tốt nghiệp đại học luật và một cán bộ tình báo KGB nên đã trở thành một đề tài để truyền thông phương Tây nói xấu ông. Putin hiểu rõ rằng các tài phiệt đã mua một cách rẻ mạt các tài sản quan trọng của đất nước một cách đúng luật dưới thời Yeltsin. Tuy nhiên sự “đúng luật” đó không có nghĩa là nó đúng với “đạo lý” vì dưới thời Yeltsin, các tài phiệt, là cánh hẩu của Yeltsin, đã thao túng công tác lập pháp để tạo ra các hành lang pháp lý không bảo vệ lợi ích của đất nước mà thực chất là tạo điều kiện cho lợi ích riêng của họ. Hành động đầu tiên mà Putin thực hiện một cách công khai cho nhân dân cả nước biết là ông gặp gỡ các tài phiệt Nga (rất nhiều người trong đó từng nghĩ rằng họ sẽ thao túng được ông như đã thao túng Yeltsin) và yêu cầu họ tách bạch giữa việc làm kinh doanh với việc tham gia vào chính trị. Điều này đã dẫn tới làn sóng di cư ra nước ngoài đầu tiên của các tỷ phú Nga trực tiếp tham gia chính trị, trong đó nổi bật nhất là Boris Abramovich Berezovsky, một trong các tỷ phú thân cận nhất của Yeltsin, người đã dùng tiền có được từ công ty dầu mỏ mà ông ta mua được để dùng nó tạo nên một đế chế truyền hình – công cụ giúp cho Yeltsin thắng cử trước các đối thủ khác như Zhuganov của đảng Cộng sản Nga.
Sau làn sóng ra đi thứ nhất của các tỷ phú trực tiếp tham gia hoạt động chính trị thì Putin nhắm tới các tài phiệt đang nắm giữ các nguồn lực quan trọng nhất của đất nước (dầu, khí, mỏ kim loại) bằng các cách thao túng hệ thống chính sách dưới thời Yeltsin. Người ta đồn rằng, theo phong cách của một trung tá KGB, Putin đã cử người tới một cách không công khai đề nghị các tỷ phú này bán lại các doanh nghiệp mà họ giành được dưới thời Yeltsin cho nhà nước và khi bị từ chối thì tiến hành các cuộc điều tra về trốn thuế và gian lận thương mại. Điều này đã dẫn tới việc bắt giữ, kết án và di cư sang phương Tây của nhóm tài phiệt thứ hai mà điển hình nhất là Mikhail Khodorkovsky.
Bước tiếp theo của Putin là yêu cầu các quan chức Nga không được có quốc tịch thứ hai và tài sản ở nước ngoài. Nói một cách nôm na là khi một cuộc chiến tranh xảy ra thì nước Nga chỉ có thể trông cậy vào quân đội và hải quân của mình như lời Sa hoàng Alexander III nói thì người Nga cũng chỉ có thể trông cậy vào những chính trị gia, công chức là người Nga thực sự chứ không phải là những người sinh ra ở Nga nhưng có quốc tịch Anh, biệt thự ở Monaco và tiền gửi ở Thụy Sỹ. Điều này nhằm đảm bảo rằng các chính sách kinh tế mà họ ban hành chỉ vì quyền lợi của nước Nga chứ không phải vì quyền lợi của một quốc gia khác. Điều này đã được thực hiện triệt để tới mức, dù rằng truyền thông phương Tây nói rằng Putin có tài sản riêng lên tới gần 200 tỷ đô được giấu ở nước ngoài (và các quan chức thân cận khác của ông cũng vậy) thì vào năm 2014 và năm 2022, khi các biện pháp cấm vận và phong tỏa tài sản các nhân vật quan trọng trong chính quyền Nga được công bố thì phương Tây không tìm được bất kỳ tài sản nào như vậy. Peskov, người đứng đầu văn phòng tổng thống Nga, vào khoảng năm 2015, khi được một nhà báo phương Tây hỏi quan điểm của ông về lệnh phong tỏa tài sản ở nước ngoài đối với cá nhân ông, đã trả lời rằng vì ông ấy cũng hay đãng trí nên ông sẽ rất cảm ơn nếu như phương Tây tìm ra được số tiền nào mà ông đã gửi ở nước ngoài mà không nhớ ra.
Song song với việc loại trừ sự ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và nước ngoài lên chính sách kinh tế của Nga, Putin khuyến khích phát triển sản xuất trong nước. Khác với các nhà lãnh đạo Liên Xô trước kia, chúng ta thấy Putin rất chủ động trong việc quảng cáo cho hàng hóa nội địa, đặc biệt trong các sự kiện được quốc tế quan tâm. Ông không ngại ngân lôi cả các nguyên thủ nước ngoài như chủ tịch Tập Cận Bình hay tổng thống Edorgan vào trong các pha quảng cáo sản phẩm Nga. (ví dụ trong hình dưới đây, Putin tự khoác chiếc tạp dề có logo “Russian Fish”, một thương hiệu quốc gia được chính phủ Nga và các doanh nghiệp thủy sản hợp tác để xuất khẩu cá và trứng cá ra nước ngoài. Do ông đã khoác chiếc tạp dề này nên chủ tịch Tập Cận Bình cũng khoác một chiếc tương tự và trở thành người quảng bá cho trứng cá Nga tới thị trường Trung Quốc). Hoặc trong một trường hợp khác, khi ông thể hiện kỹ năng của một vị nguyên phó thị trưởng St. Petersburg trong việc xúc tiến thương mại hàng Nga đi lái thử một chiếc xe hơi do Nga tự sản xuất. Vào lúc đó, người giới thiệu xe hôm đó đã quá bối rối trước mặt tổng thống nên khi mở khóa cửa xe từ phía trong đã thao tác không đúng nên không mở được và đã dùng sức mạnh tới mức chiếc lẫy cửa gẫy rời ra. Putin đã hài hước chữa thẹn cho ông ta bằng cách nói trước camera truyền hình là không thể giao một chiếc xe dân sự cho mấy tay cựu chiến binh chỉ quen dùng đồ quân sự được.
Những nỗ lực này của Putin trong việc xây dựng lại sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập khẩu không được phương Tây đánh giá cao. Các nước phương Tây, với ấn tượng về sức sản xuất hàng hóa dân dụng yếu kém của Liên Xô trong hàng chục năm trước, đều cho rằng các cố gắng của Putin là vô ích. Vào năm 2014, khi Nga chiếm Crimea và hàng loạt lệnh cấm vận được áp đặt lên Nga, báo chí phương Tây trong thời gian đầu đã đưa tin rằng các kệ hàng của siêu thị Nga trống không và người Nga sẽ thiếu từ pa-tê tới bơ, sữa. Tuy nhiên, sau đó, truyền thông phương Tây lần lượt im tiếng về vấn đề này. Đại dịch Covid và toàn bộ các lệnh cấm vận khi chiến tranh Ukraine nổ ra năm 2022 cho thấy nền kinh tế của nước Nga không hề bị rối loạn bởi sự đứt gãy của chuỗi cung ứng toàn cầu (khi covid xảy ra) và họ không bị ảnh hưởng bởi các lệnh cấm vận.
Ngược lại, khi các lệnh cấm vận được đẩy tới mức đỉnh điểm (và thực chất là không còn gì hơn nữa) thì phương Tây phát hiện ra là thế giới có thể gặp nạn đói nếu không có sản phẩm nông nghiệp của Nga, phân bón Nga. Phương Tây giật mình phát hiện ra rằng trong 20 năm qua, nền kinh tế của Nga đã được tái cơ cấu theo hướng mà các sản phẩm xuất khẩu mạnh nhất của Nga lại là các sản phẩm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu nhất cho xã hội (lương thực và thứ giúp tạo ra nó là phân bón), các hóa chất đầu vào của các ngành công nghiệp khác, và quan trọng nhất là năng lượng thứ sẽ quyết định sức cạnh tranh của hàng hóa phương Tây cũng như đời sống của nhân dân họ.
Một trong các cố gắng đặc biệt quan trọng để vực dậy nền sản xuất trong nước của Nga cho đến nay mà đại đa số người quan tâm tới nước Nga và cuộc chiến Ukraine không biết tới là nỗ lực tạo ra Liên minh Hảiquan Âu-Á (Eurasian Customs Union). Vai trò của liên minh này đặc biệt quan trọng nhưng nó lại cố tình bị truyền thông phương Tây lờ đi vì chính nó được sử dụng là cái cớ đầu tiên để tạo ra cuộc cách mạng maidan năm 2014 và từ đó là cuộc chiến tranh Ukraine hiện nay.
Liên minh Hải quan Âu-Á được khởi thảo vào năm 1995 và đến năm 2007 thì chính thức đi vào hoạt động với 5 quốc gia: Nga, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Armenia. (trong hình kế bên, các quốc gia ngoài Nga được kẻ sọc đỏ cho bạn dễ nhận biết).
Nhìn ở trên bản đồ trên, các bạn có thể rằng ngoại trừ Nga ra, 4 quốc gia còn lại không có các cảng biển thông ra đại dương. (Kazakhstan có cảng ra biển Caspian nhưng đây là một biển nội địa không thông với đại dương nào). Dưới thời Liên Xô, đại đa số các hàng hóa xuất khẩu của Liên Xô sang phương Tây được đi qua cảng Odessa của Nga. Có thể các bạn không biết nhưng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các vũ khí của Liên Xô viện trợ đường biển cho Việt Nam có một lượng lớn đi từ Odessa chứ không phải từ Vladivostok ở Viễn Đông. (Lý do là vì các trung tâm sản xuất vũ khí của Liên Xô lúc đó nằm ở Ukraine). Sau khi Liên Xô sụp đổ, 4 nước Belarus, Armenia, Kazakhstan và Kyrgyzstan phải sử dụng các cảng của Ukraine và Nga để xuất khẩu. Tuy nhiên vì các quốc gia đã trở thành các quốc gia độc lập nên việc thông quan hàng hóa trở nên rất phức tạp. Do đó, việc hình thành một liên minh thuế quan để giảm thời gian, chi phí và thủ tục thông quan hàng hóa là rất quan trọng.
Cùng vào thời điểm đó, nước Nga đang muốn xây dựng lại nền kinh tế sản xuất nội địa nên cần phải có một hệ thống thuế quan bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên nền sản xuất này cũng cần các nguyên liệu thô, các cơ sở công nghiệp và thị trường của 4 nước còn lại và Ukraine. Mặt khác, do quy hoạch của Liên Xô trước đây nên nền kinh tế của tất cả các quốc gia cựu Xô Viết rất phụ thuộc lẫn nhau và việc tái cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế theo hướng mỗi quốc gia đều độc lập sẽ dẫn tới việc bỏ phí tất cả các quy hoạch và cơ sở hạ tầng mà Liên Xô đã xây dựng trong 70 năm trước đó. Do đó, một logic rất thực tế giúp tối ưu hóa mọi thứ là lập ra một không gian chung về chính sách kinh tế, đầu tư, thuế và hải quan. Thực ra logic và mô hình cho việc lập ra không gian chung đó chính là logic và mô hình hình thành nên Cộng đồng Châu Âu. Bước đầu tiên của việc hình thành nên không gian kinh tế chung đó là một liên minh về hải quan và liên minh này được các nước trên và cả Ukraine bắt đầu bàn bạc và ký kết các thỏa thuận sơ bộ từ năm 1995.
Để Liên minh Hải quan có hiệu quả thì ngoài việc đơn giản hóa thủ tục hải quan thì các nước trong liên minh cần phải có một hệ thống cảng biển tốt. Dưới thời Liên Xô, Ukraine là nước cộng hòa có cơ sở hạ tầng cảng biển tốt nhất và cáng đáng cho phần lớn hoạt động xuất nhập khẩu của cả liên bang. Vào năm 2007, năm liên minh thành lập thì tình hình cũng vẫn như vậy.
Như ở trên đã nói, trong 10 năm đầu tiên nắm quyền, Putin đã cố gắng để tăng cường xuất khẩu các mặt hàng khác của Nga ngoài dầu thô và quặng. Việc xuất khẩu này phụ thuộc vào hệ thống cảng của Ukraine thông ra biển Đen, biển không bị đóng băng vào mùa Đông. Tuy nhiên, vào năm 2004, Yushchenko, ứng cử viên đã bị thất cử trong vòng 2 đấu với Yanukovic (thủ tướng và là một người được cho là thân Nga) đã phát động hàng loạt các cuộc biểu tình rộng lớn (tương tự như những gì Saakashvili đã làm 1 năm trước đó ở Georgia và đã giành được chính quyền). Đứng trước khả năng xảy ra bạo động, Yanukovic đã đồng ý tổ chức lại vòng 2. Với các màn truyền thông chuyên nghiệp đầy kịch tính (như việc Yushchenko tuyên bố là bị chính phủ của Yanukovic đầu độc) và sự công khai ủng hộ có tính can thiệp của EU và Mỹ, Yushchenko đã thắng cử. Cùng với sự thắng cử của Yushchenko, việc Ukraine gia nhập không gian kinh tế chung hậu Xô Viết do Nga đề xuất cũng bị dừng lại. Do đó, Nga và 4 nước còn lại đã thiết lập liên minh hải quan chính thức vào năm 2007.
Vào năm 2010, khi Yanukovic trúng cử tổng thống, việc đàm phán để gia nhập liên minh hải quan được nối lại. Tuy nhiên, trong suốt nhiệm kỳ 4 năm của Yanukovic phe đối lập được phương Tây hậu thuẫn đã liên tục tổ chức các cuộc đình công. Cùng với sự quản lý yếu kém của Yanukovic, Ukraine rơi vào khủng hoảng kinh tế và có khả năng vỡ nợ. Vào năm 2014, khi đứng trước khả năng quốc gia vỡ nợ, Yanukovic đã tiến hành đàm phán với cả EU và Nga để tìm kiếm một sự hỗ trợ.
Lúc này chúng ta cần quay lại một chút với nước Nga. Vào năm 2007, Liên minh Hải quan Âu-Á chính thức được thành lập giữa 5 quốc gia hậu Liên Xô (không có Ukraine). Liên minh này cho phép các nước thành viên được hưởng mức thuế nhập khẩu khi xuất hàng hóa qua lại lẫn nhau thấp hơn nhiều hàng nhập khẩu từ ngoài khối (để khuyến khích sản xuất nội địa). Từ năm 2007 tới năm 2014, sự bảo hộ sản xuất trong nước của Nga đã gia tăng và gặt hái được thành công. Các chính sách về đầu tư của Nga khiến cho mô hình mua doanh nghiệp Nga rồi tiến hành nhập khẩu không sản xuất của phương Tây trở nên khó khăn (vì hàng sản xuất tại Nga sẽ được ưu đãi thuế cao hơn nhiều hàng nhập khẩu). Các doanh nghiệp phương Tây vì thế tìm cách lách các quy định bảo hộ của Nga bằng cách biến hàng hóa của mình thành hàng hóa của một trong các nước cộng hòa thuộc Khu vực Thương mại Tự do Cộng đồng các Quốc gia Độc lập và quốc gia lý tưởng nhất là Ukraine vì quốc gia này có hệ thống đường bộ, đường sắt và đường biển nối với phương Tây tốt nhất trong không gian hậu Liên Xô. Kể từ khi khu vực thương mại tự do này được thành lập năm 2011, một lượng lớn hàng hóa phương Tây đã được đưa vào Nga và được hưởng mức thuế suất ưu đãi với tư cách là hàng hóa của Ukraine. Tuy nhiên, trên thực tế, các hàng hóa phương Tây này sản xuất toàn bộ ngoài Ukraine và chỉ mượn Ukraine là nơi đóng bao bì để hưởng quy chế ưu đãi. Nếu điều này không dừng lại thì kế hoạch tự chủ sản xuất của Putin (và là yếu tố quan trọng nhất để không lặp lại sự sụp đổ của Liên Xô như ở trên đã nói) sẽ phá sản.
Để ngăn chặn được điều trên, Putin cần một sự đảm bảo rằng Ukraine sẽ không biến mình thành một trung tâm tuồn hàng lậu từ phương Tây vào Nga. Để làm được điều đó thì các thỏa thuận của Khu vực Thương mại Tự do Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (vốn được thiết kế để cho cả 11 quốc gia cựu Liên Xô với trình độ kinh tế rất khác nhau có thể đáp ứng được) là quá lỏng để ngăn chặn hoạt động buôn lậu. Do đó, Nga cần Ukraine tham gia vào Liên minh Hải quan Á-Âu với các quy định chặt hơn nhưng đổi lại có các ưu đãi lớn hơn. Vào thời điểm này, đó là con đường duy nhất để giải quyết vấn đề gian lận thương mại vì nếu như Nga tự áp đặt đơn phương các biện pháp thuế quan thì sẽ bị Ukraine kiện ra Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) - tổ chức mà Ukraine đã là thành viên từ năm 2008 nhưng Nga phải cố gắng mãi đến năm 2012 mới vào được.
Quay lại Ukraine, vào năm 2014, quốc gia này đang trên bờ vực phá sản. Mặc dù được coi là thân Nga nhưng trên thực tế, từ khi lên nắm quyền, tổng thống Yanukovic lại tiến hành đàm phán với EU để tạo ra một khu vực tự do thương mại giữa Ukraine và EU. Tuy nhiên, khi Ukraine đứng trước bờ vực phá sản thì Yanukovic yêu cầu EU các hỗ trợ kinh tế cho việc tham gia khu vực tự do thương mại. EU và IMF (với sự bảo lãnh của EU) đã đưa ra các đề xuất hỗ trợ kinh tế. Tuy nhiên, các đề xuất của IMF đã khiến cho chính phủ Ukraine bị sốc. Để đổi lại một khoản vay 4 tỷ đô để cứu vớt nền kinh tế, Ukraine sẽ phải cắt giảm ngân sách nhà nước, tăng giá bán gas cho người dân lên 40% và hàng loạt các chính sách khác.
Với một đất nước đang lâm vào cuộc khủng hoảng bởi các cuộc đình công liên miên do phe đối lập tạo ra thì đề nghị của IMF là tương đương với một đề nghị tự sát cho chính phủ của Yanukovic. Điều nực cười ở chỗ là, vào năm 2014 thì Ukraine đang được hưởng giá gas thấp nhất châu Âu. Tuy không nói ra nhưng ai cũng biết rằng nước Nga bán giá đó cho Ukraine là để có được sự ủng hộ của đông đảo người dân Ukraine. Nếu chính phủ Ukraine tăng giá gas bán cho dân theo đề nghị của IMF (và lấy số tiền phát sinh từ đó ra để chi tiêu) thì vào năm sau, Nga sẽ nâng giá bán gas cho Ukraine. Tiếp đó, việc cắt giảm ngân sách nhà nước cũng có nghĩa là Yanukovic sẽ làm mất đi sự ủng hộ của các nhân viên công lực đối với chính quyền của mình – điều mà Yanukovic cần hơn bao giờ hết vào lúc đó. Hơn nữa, số tiền 4 tỷ đô vay IMF sẽ phải trả lại với lãi chứ không phải là viện trợ không hoàn lại.
Vào thời điểm đó, Yanukovic có lẽ đã nhận ra được một sự thực đau lòng như sau. Gần 25 năm sau khi độc lập, nền kinh tế của Ukraine vẫn chưa thể cạnh tranh với nền kinh tế của châu Âu. Do đó, một khu vực thương mại tự do sẽ chỉ biến Ukraine trở thành một thị trường mở cho hàng hóa của châu Âu và sẽ giết chết các ngành công nghiệp nhẹ của Ukraine. Các ngành công nghiệp nặng của Ukraine: thép, mỏ, động cơ, tàu biển, máy bay thì cần năng lượng giá rẻ của Nga và Nga cũng là đầu ra cho sản phẩm của các ngành này (chứ không phải là EU). Vào thời điểm đó 1,5 triệu người Ukraine đang làm việc tại Nga và gửi tiền về nước vì thu nhập tại Nga cao hơn ở Ukraine (chính bản thân tổng thống Zelensky, khi đó là một diễn viên, cũng đã có nhiều show diễn hài ở Nga, trong đó có một lần chính tổng thống Putin tới xem). Việc gia nhập khối tự do thương mại với EU chỉ mang lại một lợi thế duy nhất cho Ukraine là mở cửa thị trường EU cho lao động Ukraine. EU cần lao động trẻ, khỏe và giá rẻ. Vào những năm 90, lượng lao động này đến từ Ba Lan và các nước Đông Âu. Tuy nhiên, sau 20 năm, các lao động này trở nên đắt hơn vì nền kinh tế các nước này phát triển lên. Do đó, EU cần một lượng lao động mới từ Ukraine.
Đối với những người lao động trẻ tuổi của Ukraine ở miền Tây, việc đi làm và sống ở EU mà không phải qua các thủ tục phiền hà là một giấc mơ. Do cơ cấu kinh tế của Ukraine, các ngành kinh tế quan trọng nhất (nông nghiệp và công nghiệp nặng) lại nằm ở phía Đông, vùng Donbass. Do đó, cơ hội làm việc ở Tây Ukraine ít hơn – và việc đi về phía Tây là lựa chọn tuyệt vời đối với giới trẻ. Đối với người Ukraine ở miền Đông, họ không hào hứng với việc đi về phía Tây. Đối với họ việc đi lại giữa Ukraine và Nga không có gì khác biệt. Nếu như ở phương Tây họ thấy lạ lẫm thì việc họ qua lại giữa Ukraine và Nga không khác gì với việc đi lại giữa các nước cộng hòa thời Liên Xô. Đối với những người miền Đông thì EU chỉ cần sức lao động của họ. Trong khi đó, nước Nga cần và coi trọng tài nguyên, các cơ sở công nghiệp, các sản phẩm và các kỹ năng làm việc của họ.
Là một người xuất thân từ miền Đông, có lẽ Yanukovic cũng nhận thấy điều đó. Tuy nhiên, là một tổng thống phải chống đỡ với phe đối lập, ông ta bắt đầu nhận ra một điều khác. Chính phương Tây mà ông ta hướng tới trong 4 năm cầm quyền là người tài trợ, đào tạo, huấn luyện cho lực lượng đối lập. Các thành phần dân tộc chủ nghĩa được đào tạo tại các căn cứ trên đất EU (và thực tế sau này họ sẽ trở thành lực lượng xung kích trong việc tấn công các nhân viên công lực). Các hoạt động gây hỗn loạn xã hội của phe đối lập được phương Tây khuyến khích. Và cuối cùng nếu gia nhập khu vực thương mại tự do với EU, ông ta sẽ mất toàn bộ các sự ủng hộ cho mình. Trước hết, quan hệ căng thẳng với Nga sẽ dẫn tới sự tổn thất lớn cho kinh tế của Ukraine mà khối thương mại tự do với EU chưa thể bù đắp được. Khoản tiền 4 tỷ đô là khoản tiền vay và phải trả lãi nhưng những điều khoản của nó sẽ khiến ông tự sát về mặt chính trị. Việc tăng giá gas sẽ khiến cho toàn bộ người dân bất mãn với ông và gia nhập các cuộc phản đối của phe đối lập. Việc cắt giảm ngân sách sẽ dẫn tới sự bất mãn của các nhân viên công lực. Hai điều đó sẽ dẫn tới một cuộc cách mạng lật đổ như đã diễn ra ở Georgia năm 2003 và suýt diễn ra ở Ukraine năm 2004. Khoản vay của IMF, nói một cách thẳng thắn, không phải là bơ mà là bả chuột.
Vào thời điểm đó thì Putin đưa ra đề nghị với Yanukovic. Đề nghị của Putin về mọi mặt có lợi cho Ukraine hơn là đề nghị của EU. Theo đó, để đổi lại việc Ukraine tham gia Liên minh Hải quan Á-Âu thì Nga sẽ mua 15 tỷ đô la trái phiếu do Ukraine phát hành với lãi suất 5%/năm. Ukraine có quyền trả nợ bằng việc khấu trừ vào tiền Ukraine được hưởng từ hoạt động trung chuyển khí gas cho Nga qua Châu Âu. Để giúp cho Ukraine cân đối ngân sách, giảm các khoản phải chi, Nga sẽ giảm giá bán khí gas từ 400 đô cho 1000 m3 khí xuống còn 268 đô.
Ngay sau khi Yanukovic chấp nhận đề nghị của Nga, châu Âu đã lên tiếng rằng Ukraine chỉ có thể chọn hoặc là thành viên của Liên minh Hải quan với Nga hoặc là thành viên của khu vực tự do thương mại với EU chứ không thể cùng 1 lúc có cả hai. Bộ máy tuyên truyền phương Tây và các quan chức EU đều nói rằng việc gia nhập liên minh với Nga sẽ làm cho Ukraine đánh mất chủ quyền của mình. Điều nực cười là mô hình liên minh của Nga là một sự mô phòng các hiệp đinh liên minh của EU. Trong mô hình EU, các chính sách kinh tế, thuế, bản quyền, đầu tư, tiền tệ và hải quan của mỗi quốc gia sẽ phải tuân thủ chính sách chung mà nghị viện EU thông qua và điều này không được coi là các nước thành viên mất chủ quyền. Cũng mô hình tương tự như vậy nhưng ở diện hẹp hơn (chỉ với chính sách hải quan) và do một cơ quan chung do các nước thành viên của liên minh hải quan bầu ra và nếu Ukraine tham gia thì sẽ bị EU coi là mất chủ quyền. Và ngoạn mục hơn nữa, EU lờ đi việc nước Anh rời khỏi EU một năm trước đó chính vì quốc gia này cho rằng mình đã bị EU lấy đi một phần chủ quyền bởi cơ chế hiện hữu của nó. Ở đây chúng ta thấy có một tiêu chuẩn kép khủng khiếp trong lời nói và hành động của EU.
Sau khi EU đưa ra các tuyên bố như vậy thì Nga đã đề nghị ký một thỏa thuận 3 bên giữa EU, Ukraine và Liên minh Hải quan Á- Âu để giải quyết các bất đồng về việc Ukraine gia nhập liên minh. EU cương quyết từ chối.
Khi mùa đông đến và không còn khả năng thanh toán chi phí mua năng lượng, Ukraine không thể ngồi đợi sự thỏa hiệp giữa Nga với Ukraine và đã ký hiệp định với Liên minh Hải quan.
Ngay sau khi hiệp định được ký, các thanh niên, sinh viên bị vỡ giấc mộng đi về phía Tây đã xuống đường. Sau đó phe đối lập đứng ra tổ chức. Sau đó là Nuland, thứ trưởng bộ ngoại giao Mỹ cùng các quan chức châu Âu mang bánh mì tới quảng trường Maidan ở Kiev thể hiện sự ủng hộ. Sau đó là đổ máu ở Maidan và Yanukovic bỏ chạy. Sau đó là Nga chiếm Crimea và súng nổ ở Donbass và cuộc chiến tranh Ukraine đã bắt đầu.
Đến giờ nhìn lại, chúng ta không thể không có chút cay đắng khi nhận ra là vào năm 2014, khi Ukraine đang trên bờ vực phá sản và cần sự giúp đỡ hơn bao giờ hết thì EU và IMF đề xuất một khoản vay 4 tỷ đô với các điều kiện ngặt ngèo để giúp cho Ukraine. Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Nuland đã nói rằng, trước khi maidan xảy ra, Mỹ đã tài trợ cho các tổ chức đối lập 5 tỷ đô la để nâng cao năng lực cho họ. Khi cuộc chiến nổ ra ở miền Đông giữa những người Ukraine với nhau thì phương Tây cho Ukraine vay 57 tỷ đô để (mua thời gian nhằm xây dựng quân đội như cựu tổng thống Pháp Holland và cựu thủ tướng Đức Merkell thừa nhận). Khi chiến tranh nổ ra với Nga thì chỉ trong vòng 1 năm, phương Tây đã cho Ukraine vay tiếp gần 150 tỷ đô để tiếp tục chiến đấu. Nếu nói một cách ngắn gọn là ngay cả việc đi vay cũng có cái giá của nó.
Để các đảng đối lập “nâng cao năng lực nhận thức”: chính phủ Ukraine nhận 0 đô la; các đảng đối lập tài trợ không hoàn lại 5 tỷ đô.
Một cứu đất nước đang sắp sửa phá sản: đề xuất cho vay 4 tỷ đô
Một cuộc nội chiến 8 năm và để chuẩn bị cho một cuộc chiến với Nga: cho vay 57 tỷ đô
Một cuộc chiến tranh để giết càng nhiều người Nga càng tốt: 150 tỷ đô cho năm đầu tiên.
Vào tháng 3/2023, thượng nghị sỹ Mỹ Lindsey Graham gặp tổng thống Zelensky. Trong cuộc nói chuyện, khi nói về các tài trợ của Mỹ cho Ukraine để chiến đấu chống lại Nga, ông nói rằng “đây là những khoản tiền mà chúng tôi chúng tôi đã tiêu một cách tốt nhất tính tới nay”. 45 giây sau đó, ông nói “người Nga đang chết trận”. Khi công bố đoạn video của cuộc trao đổi đó, chính quyền Ukraine đã cắt gián, chỉnh sửa lại và theo video này thì Graham nói là “người Nga đang chết trận – đây là những khoản tiền mà chúng tôi chúng tôi đã tiêu một cách tốt nhất tính tới nay.”
Việc văn phòng tổng thống Ukraine cắt dán lời nói của một thượng nghị sỹ Mỹ rồi công bố cho cả thế giới biết là một hành động không thể nói là vô tình. Nó cho thấy cách chính quyền Ukraine hiện nay đang suy nghĩ về cuộc chiến và tài trợ của các đồng minh mà cụ thể ở đây là Hoa Kỳ. Đó là đối với Mỹ, khoản chi tốt nhất là khoản chi để giết chết người Nga.
Nhìn lại vấn đề này, chúng ta thấy rằng, dù luôn luôn cười nhạo các nỗ lực của Putin trong việc tạo ra một nền kinh tế tự chủ không bị phương Tây và tài phiệt thao túng, trên thực tế, phương Tây đã làm mọi cách để bóp chết các nỗ lực đó từ trong trứng nước. Các nỗ lực ngăn chặn này trải dài từ tinh vi như cài đặt các chính sách để nền kinh tế Nga mãi què quặt tới thô thiển như ép Ukraine không được gia nhập liên minh hải quan bất chấp các đề nghị đàm phán ba bên từ Nga. Và cuối cùng, khi không thể ngăn cản được thì chuyển thành bạo lực – từ cấp độ nhỏ như bạo lực trong cuộc cách mạng maidan, tới cuộc chiến tiễu trừ khủng bố mà chính quyền Ukraine tiến hành trong 8 năm ở Donbass và cuối cùng là bơm tiền để duy trì cuộc chiến tranh nhằm làm chết càng nhiều người Nga càng tốt. Và chính quyền Ukraine hiện nay hiểu rõ tất cả điều đó. Khi nước Mỹ không thể công khai nói ra thì Ukraine sẽ giúp họ bằng cách chỉnh sửa lại video của thượng nghị sỹ Graham để có lời phát biểu rõ ràng “người Nga đang chết trận – đây là những khoản tiền mà chúng tôi chúng tôi đã tiêu một cách tốt nhất tính tới nay.”
Tôi sẽ tạm dừng nội dung về phát triển kinh tế của Nga ở đây vì các nội dung tiếp theo sẽ được bàn trong phần sau về bàn cờ lớn mà Nga và Trung Quốc sẽ chơi để tạo ra những “thay đổi mà 100 năm qua chưa từng thấy”. Tương tự như vậy, vấn đề tránh vết xe đổ của Liên Xô trong quan hệ hợp tác với Trung Quốc và chiến tranh ở Apghanistan sẽ được trình bày trong phần sau (bàn cờ của Nga và Trung Quốc).
Ở phần tiếp theo, chúng ta sẽ bàn về các bài học mà Putin rút ra từ việc sụp đổ lý tưởng cộng sản dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô.
Lưu ý: vì vấn đề “bàn cờ của Nga và Trung Quốc” sẽ phức tạp nên tôi sẽ viết theo một cấu trúc với các phần đánh số thứ tự liên tục từ phần này tới hết. Do đó, ở phần 8 này, các bạn sẽ thấy phần cuối là mục 3.2.4.2 thì ở phần 9 tiếp theo, mục đầu sẽ là 3.2.4.3.
Sửa lúc 2.00 pm ngày 21/6/2023: bạn Phan Tiến Đạt có nhắc nhở tôi rằng trong bài có một chi tiết sai. Đó là câu “(Kazakhstan và Armenia có cảng ra biển Caspian nhưng đây là một biển nội địa không thông với đại dương nào)”. Thực tế là Armenia là quốc gia hoàn toàn không có biển. Tôi đã sửa câu trên trong bài theo đúng phản ánh của bạn Đạt. Xin cảm ơn bạn Đạt.
LƯU Ý VỀ BẢN QUYỀN:
Cảm ơn tác giả, phần này chờ hơi lâu nhưng thực sự cái giá của chờ đợi đã được đền đáp xứng đáng. Càng đọc càng cuốn hút, những gì của thế kỷ trước tưởng như bị lãng quên hoặc chưa được biết thì tác giả đã tóm lược một cách dễ hiểu nhất trong bài viết.
Chúc anh và gia đình thật nhiều sức khoẻ và hạnh phúc. Độc giả đón chờ phần tiếp theo của anh.
Khâm phục Anh ngoài kiến thức quân sự A còn giỏi về kiến thức kinh tế
Cảm ơn A vì 1 bài viết chất lượng