CHIẾN TRANH Ở UKRAINE - Nga rút lui ở Kherson và một giai đoạn khốc liệt mới của cuộc chiến sắp bắt đầu.
Hôm kia, 8/11/2022, tướng tư lệnh quân Nga ở Ukraine Surovikin và bộ chưởng quốc phòng Shoigu đã có một cuộc trình diễn trên truyền hình. Trong cuộc trình diễn này, tướng Surovikin trình bày lý do cần phải rút khỏi thành phố Kherson ở bờ Tây sông Dnieper. Lý do được đưa ra là việc tiếp vận hậu cần cho quân Nga tại bờ Tây sông Dnieper là khó khăn sau khi cầu Antonovky bị quân Ukraina phá hủy bằng HIMARS và các đơn vị Nga tại bờ Tây sẽ có nguy cơ bị bao vây nếu quân Ukraine phá đập thủy điện phía thượng lưu dẫn tới việc ngập khu vực Kherson. Shoigu đã chấp thuận việc rút quân. Tôi gọi đây là một màn diễn bởi vì Surovikin ngay trong phát biểu khi nhận chức đã nói rằng tình hình ở phía Nam Ukraine là khó khăn và quân Nga có thể sẽ phải thực hiện một số quyết định đau lòng. Trong 3 tuần qua, quân Nga đã tiến hành di rời dân thường khỏi Kherson và biến thành phố này thành một thành phố không dân thường. Trong 1 tháng qua, quân Ukraine tấn công liên tục trên mặt trận này nhưng các cuộc tấn công đều bị đánh bại trong 1-2 ngày và chiến tuyến gần như không thay đổi. Ngày hôm nay 11/11/2022, quân Nga đã phá huỷ cây cầu Antonovsky nối Kherson với bờ Đông và quân Nga đã rút toàn bộ khỏi Kherson.
Điều đáng ngạc nhiên là Ukraine, phía thường khuyếch trương rất mạnh các chiến thắng dù nhỏ của mình trên chiến trường lần này lại rất dè dặt với tin trên. Kherson là thành phố lớn nhất mà quân Nga chiếm được vào đầu tháng 3/2022 mà không cần phải đánh nhau và trong những tháng qua quân Ukraine cũng đã đổ rất nhiều máu mà không chiếm lại được. Thế nhưng, khi quân Nga tuyên bố rút lui thì cả phía Ukraine lẫn một số tướng lĩnh NATO đều không tỏ ra vui mừng và thậm chí nói thẳng rằng đó có thể là một cái bẫy của quân Nga.
Về phía Nga, việc rút lui khỏi Kherson cũng là một động thái lạ và sẽ có các tác động tiêu cực tới tâm lý ủng hộ của dân Nga đối với chính quyền của Putin. Nếu như Putin tận dụng hậu quả xấu của thắng lợi ngoạn mục của quân đội Ukraine tại Nam Kharkov để đẩy nhanh việc tổ chức trưng cầu dân ý tại 4 tỉnh bị chiếm đóng và khiến cho lưỡng viện thông qua việc sáp nhập 4 tỉnh vào Nga cũng như chấp thuận việc động viên 300 ngàn cựu quân nhân tái ngũ thì việc rút lui tại Kherson sẽ chỉ mang lại hậu quả xấu cho Putin trong thời gian trước mắt. Đối với người Nga, việc tuyên bố sáp nhập 4 tỉnh vào Nga và việc rút lui khỏi Kherson đã dẫn tới việc lần đầu tiên kể từ 1945, quân đội Nga bỏ mất một thành phố là thủ phủ của một tỉnh cho quân đội nước ngoài (tôi không tính tới việc quân Nga rút khỏi Grozny năm 1996 vì những người chiếm Grozny sau đó không phải là quân đội nước ngoài). Đây là một viên thuốc đắng cho cả Putin lẫn bộ quốc phòng Nga. Tuy nhiên, phương Tây lại không hành động như mọi khi (còn nhớ các quan chức phương Tây đầu cuộc chiến đã tuyên bố rất mạnh mẽ rằng nếu Nga tấn công Ukraine họ sẽ thất bại và nước Nga sẽ sụp đổ). Không ai tuyên bố rằng đây là sự bắt đầu sụp đổ của quân đội Nga, của nước Nga. Thậm chí báo chí phương Tây cũng chung một giọng điệu hồ nghi về sự rút lui của Nga.
Vì các lý do trên nên tôi đã suy nghĩ về chuyện gì đang diễn ra ở Kherson và trình bày các suy nghĩ của mình ở đây.
Câu hỏi đầu tiên, quân Nga thực sự rút lui vì không thể tiếp viện được cho bờ Tây? Để trả lời câu hỏi này, tôi sẽ xem xét các vấn đề sau: (i) về địa hình thực tế, (ii) về khả năng tác chiến tương lai của việc giữ hay bỏ Kherson.
1. Về địa hình thực tế:
Mặc dù tiếp vận cho bờ Tây khó khăn là lý do mà Surovikin đưa ra và Shoigu chấp nhận nhưng tôi thấy điều này không hợp lý. Quân đội Nga, cũng như mọi quân đội khác, được xây dựng để tác chiến - tấn công và phòng thủ - trong điều kiện không có các cơ sở hạ tầng dân sự (cầu, đường). Họ có thể lợi dụng các địa hình, cơ sở hạ tầng sẵn có để cho hoạt động tác chiến của mình thuận lợi hơn nhưng việc không có cầu, hay đường không có nghĩa là họ sẽ ngừng tác chiến (vì nếu thế họ sẽ không cần lực lượng công binh làm gì).
Công bằng mà nói, về mặt địa hình thì thực sự khu vực Kherson là khó khăn cho việc tiếp vận của Nga. Xin xem hình H1, các bạn sẽ thấy khu vực này là cửa sông của Dnieper ra biển. Do đó khoảng cách sông rất rộng. Điểm đặc biệt ở các cửa sông là các bãi sình lầy. Ở Kherson cũng có những bãi sình lấy lớn. Điều đặc biệt khó khăn cho quân Nga là các bãi sình lầy này lại nằm ở phía Đông con sông - tức là phần bờ bên Nga - và có chiều rộng lớn hơn rất nhiều con sông. Có những chỗ, chiều rộng của bãi lầy hơn chiều rộng của con sông từ 7-8 lần (phần được khoanh màu vàng trong hình H1). Bãi lầy này đặc biệt lớn ở khu vực thành phố Kherson. Đó là lý do mà Liên Xô, khi xây dựng cây cầu cố định qua Dnieper đã không xây ở Kherson mà xây chếch lên phía Bắc, khu vực Antonovka, nơi có khoảng rộng bãi lầy nhỏ nhất. Tuy nhiên, ngay cả tại khu vực này thì phần đường được xây dựng trên sình lầy dài gấp 5 lần phần cầu xây dựng vắt qua sông (trong hình H1, phần đường xây trên sình lầy được tô màu đỏ, phần cầu xây trên sông tô màu xanh nước biển).
Hình H2 là hình chụp cầu Antonovsky từ trên không. Ở phía bờ Đông, các bạn sẽ thấy một vùng rộng mênh mông tới hút tầm mắt và không có các công trình nhà cửa (khu vực khoanh vàng) trong khi ở bờ Tây là thành phố Kherson với mật độ xây dựng khá cao. Điều đó cho thấy khu vực bờ Đông có nền đất yếu cho việc xây dựng ra sao.
Với địa hình như trên, một khi đập ở thượng lưu sông Dnieper bị phá, toàn bộ vùng khoanh màu vàng trong hình H1 sẽ biến thành hồ nước. Với việc cây cầu Antonovsky đã bị phá huỷ thì các cây cầu phao bắc thay thế sẽ phải có chiều dài khoảng 8,5 km (xin xem các đường vạch đứt màu đen trong hình H1). Với một chiều dài lớn như vậy thì sẽ không có cầu phao nào có thể bền vững. Thế nhưng tôi đã nói ở trên là quân đội không thể coi có cầu là một điều kiện tiên quyết để tác chiến. Trong chiến dịch Market Garden năm 1944, quân Đồng Minh đã tổ chức một cuộc đổ bộ đường không có quy mô lớn nhất trong lịch sử với mục tiêu chiếm 9 cây cầu trên một con đường độc đạo dài dài hơn 100 km qua Hà Lan để vào Đức. Chiến dịch đã thất bại vì quân Đức đã kịp phá một cây cầu trong trong 9 cây cầu đó dù Đồng Minh đã chiếm được các cây cầu còn lại nhưng lại không có phương tiện để vượt sông ở chỗ cây cầu bị phá. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến Ukraine, cánh quân Nga tiến vào Kiev cũng đã gặp trường hợp tương tự. Quân Ukraine đã kịp phá một cây cầu quan trọng khiến cho các đơn vị thọc sâu của Nga (được trang bị nhẹ và không có công binh đi kèm phải dừng lại). Nói cách khác, các sỹ quan cao cấp trong trường học quân sự đều học về những kinh nghiệm này và quân Nga, ngoài sách vở ra họ còn có kinh nghiệm cay đắng ở khu vực Kiev vài tháng trước. Nói ngắn gọn là để vượt sông, nếu không có cầu phao thì phải dùng phà.
Ở Kherson, người Nga đã có hơn 6 tháng từ lúc chiếm được tới khi quân Ukraine bắt đầu phản công và tấn công vào cây cầu Antonovsky. Do đó, nếu người Nga không chuẩn bị các phương tiện phà để vượt sông thì đó sẽ là một khiếm khuyết lớn trong công tác chuẩn bị chiến trường. Điều này khó xảy ra vì hành động của người Nga cho thấy họ đã tính toán về vấn đề này. Cách đây 2 tuần, quân Nga đã yêu cầu tất cả các chủ phương tiện di chuyển trên sông phải đưa tàu và thuyền của mình lên bờ (tất nhiên là bờ Đông) nếu không muốn bị quân Nga phá huỷ. Điều đó cho thấy họ đã tính đến cả trường hợp quân Ukraine trưng dụng các tàu thuyền này để vượt sông (nếu họ chiếm được Kherson). Nếu họ đã tính tới việc quân Ukraine vượt sông như vậy thì không có lý do nào cho rằng họ không tính phần đó về phía mình. Trong chiến tranh thế giới thứ 2, Hồng quân đã duy trì việc tiếp vận cho Leningrad bị bao vây qua hồ Ladoga trong suốt gần 900 ngày vây hãm và tiếp vận cho Stalingrad qua sông Volga trong suốt thời gian trận đánh với sự oanh tạc liên tục của quân Đức và thậm chí có nhiều lúc việc vượt sông phải thực hiện dưới hoả lực bắn thẳng của bộ binh Đức. Tôi không tin rằng về năng lực, quân đội Nga 80 năm sau không làm được điều mà Hồng quân đã làm - đặc biệt là khi họ khống chế trên không và mạnh hơn hẳn Ukraine về hoả lực.
Kết luận của về địa hình như sau. Địa hình Kherson thực sự khó khăn cho việc tiếp vận. Tuy nhiên, tiếp vận cho Kherson không thể là bất khả thi với quân Nga. Việc phá đập có thể làm cho nước dâng lên ở sông Dnieper nhưng việc dâng nước đó không thể kéo dài quá 1 tuần vì khu vực này chính là cửa sông thông ra biển. Ngoài ra, người Nga trong thời gian qua đã liên tục xả nước ở các đập ở thượng lưu để giảm lượng nước tràn xuống khi đập bị phá. Người Nga cũng đã có hơn 6 tháng để chuẩn bị phòng thủ Kherson nên không thể cho rằng họ không dự trữ được số đạn dược và vũ khí tại bờ Tây cho khoảng thời gian đó. Do đó, cần xem xét các yếu tố khác để đoán được lý do rút lui của quân Nga.
2. Về khả năng tác chiến tương lai đối với việc giữ hay bỏ Kherson:
Nếu về mặt kỹ thuật quân Nga có thể tiếp vận cho Kherson và việc nước dâng chỉ có thể kéo dài được 1 tuần thì cần xem xét tiếp xem là khả năng giữ Kherson của người Nga ra sao.
Một số tờ báo lớn ở phương Tây khi nhận định về Kherson đã cho rằng bằng việc di dân khỏi Kherson, người Nga đang định biến đây thành 1 trận Stalingrad. Tôi cho rằng quan điểm này không đúng. Tôi cho rằng người Nga không có ý định chiến đấu ở Kherson như cách mà Yeremenko chiến đấu ở Stalingrad.
Yeremenko là vị tướng chỉ huy của Hồng quân tại Stalingrad trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Cùng với Khrushchev (là chính uỷ), ông đã huy động mọi nguồn lực có thể tại Stalingrad để phòng thủ thành phố sau khi chủ lực của Hồng quân bị quân Đức đánh tan trên các thảo nguyên vùng sông Don. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân và dân Stalingrad đã chiến đấu trên từng con phố, từng ngôi nhà. Những đơn vị xe tăng Đức đầu tiên tiến vào thành phố sau khi đánh tan quân chủ lực của Hồng quân đã tưởng rằng họ sẽ chiếm được thành phố trong hành tiến. Thế nhưng họ đã bị cầm chân suốt 1 ngày trời ở vùng ngoại ô bởi một đơn vị pháo phòng không hạ nòng bắn thẳng. Sau 8 tiếng chiến đấu liên tục và tiêu diệt tới ổ pháo cuối cùng, người Đức phát hiện ra các pháo thủ đã cầm chân họ trong 8 tiếng đó là các nữ sinh các trường học của Stalingrad chứ không phải là đàn ông. Chính các pháo thủ này đã cứu Stalingrad khỏi sự sụp đổ nhanh chóng. Khi tiến vào sâu hơn, quân Đức gặp phải các đơn vị dân quân là công nhân các nhà máy của thành phố. Một số xe tăng được sản xuất ngay tại thành phố và những người công nhân sản xuất ra xe tăng đã lái thẳng xe từ xưởng ra mặt trận chiến đấu. Họ cũng gặp phải các đơn vị cảnh sát, NKVD (lực lượng an ninh của bộ nội vụ Liên Xô) chiến đấu như các lực lượng chính quy tới người cuối cùng (không phải như trong bộ phim “Enemy at the gate” của điện ảnh Mỹ trong đó lực lượng NKVD chỉ ở lại đằng sau và bắn vào quân mình khi họ từ bỏ tấn công). Thực tế là các đơn vị phòng vệ trung tâm Stalingrad trong giai đoạn đầu là một sư đoàn NKVD (sư đoàn này là lực lượng cảnh sát vũ trang trong NKVD) và sau trận đánh, sư đoàn này gần như bị xoá sổ.
Yeremenko đã cắt chức tướng Lopatin khi ông này cho rằng tập đoàn quân 62 của mình không thể giữ được Stalingrad. Người ông chọn để kế nhiệm là Chuikov, người vừa từ Trung Quốc nơi ông giữ chức vụ tham tán quân sự để trở về nước chiến đấu. Sau khi nắm được tình hình tuyệt vọng của tập đoàn quân 62 (điều khiến cho Lopatin, một tướng xuất sắc và anh hùng của Hồng quân, cũng mất tinh thần) và được Yeremenko hỏi ý kiến, Chuikov trả lời đơn giản rằng ông là một người cộng sản, do đó, ông sẽ bảo vệ được Stalingrad hoặc sẽ chết ở đó. Báo chí phương Tây cho rằng người Nga sẽ chiến đấu tại Kherson như Yeremenko đã chiến đấu tới người cuối cùng ở Stalingrad.
Có một số lý do khiến cho báo chí phương Tây nghĩ Kherson sẽ giống Stalingrad. Thứ nhất, về địa hình, vị trí của Kherson và Stalingrad rất giống nhau. Cả 2 đều bị bao vây 3 mặt và dựa lưng vào một con sông lớn. Hậu phương là ở bờ Đông. Ở Stalingrad, các đơn vị pháo binh hạng nặng của Hồng quân được bố trí ở bờ Đông và vì thế an toàn khỏi các cuộc tấn công của xe tăng Đức. Từ vị trí an toàn này, họ bắn trùm lên các vị trí của Đức ở bờ Tây và đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc bảo vệ được thành phố.
Tuy nhiên, việc giữ Stalingrad vào năm 1942 đối với Liên Xô có ý nghĩa nhiều hơn rất nhiều việc giữ một thành phố mang tên Stalin. Khi người Nga nhận ra rằng Hitler bị ám ảnh bởi việc chiếm thành phố mang tên Stalin, họ đã sử dụng việc phòng thủ thành phố như một cái mồi để cuốn toàn bộ chủ lực của Đức ở vùng sông Đôn vào đó. Ở giai đoạn cuối, tập đoàn quân 62 của Chuikov chỉ được tiếp viện quân đủ để giữ được một giải đất nhỏ trên bờ Tây sông Volga. Chính điều này đã tạo ra cho quân Đức cảm giác rằng chỉ cần cố lên chút nữa họ sẽ chiếm được toàn bộ thành phố. Trong khi quân Đức bị tiêu hao bởi cuộc chiến trên đường phố Stalingrad bởi bộ binh và hoả lực pháo binh Nga thì Hồng quân đã phát động một cuộc bao vây Stalingrad từ bên ngoài và cuối cùng đã tiêu diệt và bắt sống tập đoàn quân số 6 của Paulus và toàn bộ quân Italia, Romania, Tây Ban Nha và Bulgaria tham chiến cùng với Đức ở đây. Trận đánh này thực tế đã đánh bại chủ lực của Đức ở phía Nam và loại Italia, Romania và Tây Ban Nha ra khỏi cuộc chiến với Liên Xô.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng việc này sẽ không thể lặp lại ở Kherson. Vào năm 1942, 2 mũi gọng kìm phản công của Nga đều bắt đầu ở các vị trí bàn đạp ở bờ Tây sông Đôn (ở phía Bắc) và sông Volga (ở phía Nam) (hai vùng màu vàng ở H5). Điều này khiến cho Hồng quân có thể khởi động cuộc tấn công mà không phải tiến hành vượt sông dưới hoả lực bắn thẳng của địch. Ở Kherson, điều này không tồn tại. Nếu quân Nga rút khỏi bờ Tây sông Dnieper và muốn tấn công bao vây quân Ukraine khi họ tiến vào Kherson thì quân Nga sẽ phải vượt biển (ở phía Nam) và vượt sông Dnieper (ở phía Bắc) (hình H6). Với việc hạm đội Biển Đen của Nga phải rút lui về Sevastopol và kinh nghiệm thất bại xương máu của cả Nga lẫn Ukraine khi cả 2 bên cố vượt sông ở Severodonetsk vài tháng trước thì điều này là không thể diễn ra. Nếu như địa hình không cho phép quân Nga có thể lặp lại 1 chiến dịch hợp vây như ở Stalingrad thì việc giữ một giải đất bên bờ Tây sông Dnieper để làm mồi nhử cho việc hợp vây là vô nghĩa.
Tuy nhiên, người Nga cũng rất khó mà bỏ Kherson mà không có chiến đấu vì như vậy đó sẽ tạo ra một tổn thất to lớn về chính trị của chính phủ Nga đối với người dân. Anh không thể tuyên bố động viên một phần, tuyên bố sáp nhập lãnh thổ, biến một cuộc xâm lược thành chiến tranh vệ quốc để rồi không đánh mà rút khỏi thủ phủ của một tỉnh của nước Nga (thành phố đã mở cửa cho quân Nga chiếm mà không phải nổ súng). Barcley de Tolly, tư lệnh quân đội Nga giai đoạn đầu cuộc chiến 1812 và Kutuzov, tư lệnh quân đội Nga sau de Tolly đều đã phải đối diện với vấn đề này. Barclay de Tolly, biết rằng người Nga sẽ không tha thứ cho ông, một người nước ngoài, nếu ông không đánh mà bỏ Smolensk. Kutuzov cũng hiểu, dù ông là người Nga, nhưng người Nga sẽ không tha thứ cho ông nếu ông bỏ Moscow mà không có một trận quyết chiến ở Borodino. Cả 2 trận đánh đều đẫm máu cho cả Nga và Pháp nhưng 2 vị tư lệnh đã không bị lịch sử và người dân Nga coi là hèn nhát.
Tôi nghĩ rằng cả Putin lẫn Shoigu và Surovikin đều không muốn đi vào lịch sử như là hèn nhát. Thế nhưng quân Nga thực sự đã rút khỏi Kherson. Nếu như vậy thì cần đoán xem tại sao họ làm vậy.
3. Một giai đoạn mới khốc liệt của cuộc chiến sắp bắt đầu.
Tôi tin rằng việc tuyên bố rút khỏi Kherson của Nga báo hiệu cuộc chiến đang sang một giai đoạn mới khốc liệt hơn nhiều.
3.1 Chiến trường quyết định - Donbass:
Với địa hình của Kherson và thực lực của quân đội Ukraine thì khả năng quân Ukraine thành công khi đánh vượt sông để tiến xuống Crimea sẽ rất thấp. Từ đầu cuộc chiến tranh tới nay, ngoại trừ cuộc vượt sông Siversky Donets ở phía Đông Nam Lyman trong chiến dịch Nam Kharkov hồi tháng trước thì quân Ukraine chưa bao giờ thành công trong các nỗ lực vượt sông khi bờ bên kia có lực lượng Nga chiếm giữ. (Cuộc vượt sông ở Lyman được tiến hành ở một khu vực không có quân Nga phòng thủ). Tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là người Nga cũng sẽ không thể sử dụng được Kherson là bàn đạp để tấn công chiếm Odessa qua ngả Mykolayev. Một cuộc tấn công vượt sông Dnieper của quân Nga tại Kherson sẽ vô cùng đẫm máu và khó thành công vì địa hình (như đã trình bày ở trên). Trong chiến dịch giải phóng Ukraine năm 1944, Hồng quân đã tiến hành theo 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ 1, họ giải phóng vùng phía Đông sông Dnieper bao gồm cả khu vực bờ Đông của khu vực Kherson (mũi tên màu đỏ trong hình H8) và tạo ra một bàn đạp ở bờ Tây Dnieper (khu vực Dnipropetrovsk) (vùng màu vàng ở hình H8). Ở giai đoạn 2, họ từ khu vực bàn đạp này tiến sang giải phóng vùng Tây Ukraine và Odessa (mũi tên đỏ trong hình H9).
Hình H8 và H9 cho thấy là dù có số lượng gấp 10 lần lực lượng của Nga ở Ukraine hiện nay nhưng tướng Zhukov không chọn vượt sông ở khu vực Kherson mà ở khu vực Dnipropetrovsk nơi địa hình thuận lợi nhất cho việc này (vùng màu vàng trong hình H8 và H9). Và mặc dù từ Dnipropetrovsk tới Odessa dài hơn từ Kherson 2,5 lần nhưng ông vẫn chọn trục này để tấn công. Tôi nghĩ rằng về nghệ thuật tiến hành chiến tranh, bộ chỉ huy của Nga hiện nay không giỏi hơn Stavka (bộ tổng tham mưu) Hồng quân năm 1944 và bộ chỉ huy NATO tại Ukraine (tôi không nói rằng bộ chỉ huy Ukraine vì thực tế trong những tháng gần đây việc hoạch định và chỉ đạo tấn công của Ukraine không phải do bộ chỉ huy này thực hiện) không giỏi hơn bộ chỉ huy của thống chế Manstein của Đức. Do đó, nói một cách ngắn gọn thì việc chiếm Odessa có vẻ sẽ được bộ tư lệnh Nga chọn theo cách làm của Zhukov năm 1944.
Một điểm đáng nói là sau 9 tháng chiến tranh, ở khu vực Ukraine, người Nga hiện nay mới thực hiện được một phần nhỏ những gì nguyên soái Zhukov đạt được trong 4,5 tháng (từ 7/1944 tới 12/1944). Đó là chiếm được một giải đất từ Rostov tới Kherson (phần màu xanh lá trong hình H10). Giờ đây có thể họ sẽ đặt mục tiêu là chiếm phần màu vàng trong hình H10 - phần mà Zhukov đã cũng chiếm được cùng với phần phía Nam màu xanh). Nếu người Nga thực hiện theo cách này thì có nghĩa là họ sẽ quay lại cách thức tấn công đã được Hồng quân thực hiện thành công năm 1944.
Tuy nhiên, vào năm 2022, tình hình chính trị và địa bàn chiến đấu có thuận lợi hơn cho quân Nga so với Hồng quân.
Trước hết, về địa bàn chiến đấu, khu vực Đông Dnieper (phần màu vàng trong hình H7) ở vào vị trí bao vây từ 3 phía (đường màu đỏ trong hình H7). Vào năm 1944, Hồng quân không có được vị thế này và họ phải tiến hành các cuộc tấn công vỗ mặt từ Đông sang Tây (xem phần màu vàng trong hình H10).
Thứ hai, việc rút khỏi Kherson và sử dụng sông Dnieper làm con hào thiên nhiên sẽ khiến cho sườn phía Tây của mũi tấn công của Nga lên Donbass được bảo vệ vững chắc bởi một số lượng lính ít hơn và quân Nga có thể dồn thêm quân Donbass. Việc này cũng sẽ đảm bảo cho quân Nga tránh được việc Ukraine dùng kế “đánh Nguỵ cứu Triệu” bằng cách đánh Kherson để giải vây cho Donbass.
Thứ ba, tình hình quân lực của Ukraine đã đến mức nguy hiểm. Sau 9 tháng chiến tranh, người Ukraine đã tiến hành tổng động viên toàn quốc đợt thứ 18. Điều này có nghĩa là cứ hai tuần họ có một cuộc tuyển quân. Điều đó cho thấy sự tiêu hao của quân đội Ukraine ra sao. Trong chiến dịch phản công ở Nam Kharkov và Kherson, các đơn vị xung kích mũi nhọn thường là các đơn vị lính đánh thuê người nước ngoài.
Mặt khác, với tình hình kinh tế đang lâm vào khủng hoảng thì hiện nay người tài trợ lớn nhất về vũ khí cho Ukraine là Mỹ. Các nước EU sau khi có 6 chính phủ sụp đổ vì các vấn đề kinh tế đã quay vào tập trung vào vấn đề kinh tế nội tại của mình. Viện trợ vũ khí cho Ukraine vẫn tiếp tục nhưng rõ ràng là đã giảm nhiều so với thời gian đầu tiên khi Ukraine gần như được đáp ứng theo yêu cầu (chỉ trừ các loại vũ khí hiện đại hàng đầu) về cả số lượng và chất lượng. Việc đảng Cộng Hoà đang thắng thế trong cuộc bầu cử 2 viện cũng sẽ khiến việc cung cấp vũ khí cho Ukraine trở nên khó khăn trong thời gian tới. Các đại biểu tiêu biểu của đảng này đã tuyên bố thẳng trong thời gian vận động bầu cử là Ukraine sẽ không nhận được sự hỗ trợ không giới hạn kiểu “ký vào một tấm séc trắng” như cách mà tổng thống Biden đang tiến hành. Với việc kiểm soát được Hạ viện, mọi nỗ lực hỗ trợ cho Ukraine sẽ bị ngăn cản. Những người Cộng Hoà biết rằng đảng Dân chủ muốn thắng cử trong kỳ tới thì phải giúp Ukraine chiến thắng trong cuộc chiến để xoá dấu ấn của cuộc sụp đổ ngoạn mục của chính quyền Afghanistan thân Mỹ hồi năm ngoái. Và vì thế, họ sẽ tìm cách để ngăn cản việc này - đặc biệt là khi các nỗ lực của Biden trong cuộc chiến Ukraine và sự ủng hộ Đài Loan đang dẫn tới một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Các điều trên có nghĩa là quân đội Ukraine đang bước sang một giai đoạn mới của cuộc chiến với tình trạng (i) quân lực đã sử dụng tới đợt tổng động viên thứ 18, (ii) nền công nghiệp quốc phòng trong nước đã bị phá huỷ, (iii) các vũ khí được cung cấp đã được sử dụng rất nhiều trong đợt phản công vừa rồi và đang có nguy cơ bị cắt giảm trong giai đoạn tới, (iv) sự hỗ trợ của các nước phương Tây giảm cả về các hành động hỗ trợ trực tiếp về quân sự, kinh tế lẫn gián tiếp như tiếp nhận người tị nạn.
Trong khi đó, về phía Nga, các bước chuẩn bị cho một trận chiến lớn theo cách kinh điển đang được tiến hành và có lẽ sắp xong: nền kinh tế quốc phòng Nga đã chuyển sang thời chiến, 300 ngàn quân tái ngũ đã đủ và đang kết thúc huấn luyện, quân Nga đã bắt đầu triển khai các hoạt động tàn phá cơ sở hạ tầng của Ukraine như kịch bản kinh điển của các cuộc chiến tranh trong 30 năm gần đây.
3.2 Sự thay đổi hình thái tác chiến và lãnh đạo chiến tranh của Nga:
Điều đầu tiên và quan trọng nhất là Putin đã buộc phải chấp nhận rằng cuộc chiến tranh Ukraine sẽ phải giải quyết theo đường lối của một cuộc chiến tranh cổ điển trong đó các quân đội nghiền nát nhau cùng cơ sở hạ tầng của đối phương với thiệt hại về nhân mạng của dân sự và quân sự đều lớn - chứ không phải một chiến dịch kết hợp giữa tình báo - quân sự - lật đổ - chính trị như giai đoạn đầu tiên.
9 tháng chiến tranh là một khoảng lùi để ta có thể đánh giá được những gì xảy ra ở giai đoạn đầu cuộc chiến. Có thể thấy là việc chiếm và sáp nhập Crimea, căn cứ hải - không quân chiến lược nhất ở Biển Đen trong thời Liên bang Xô Viết (và cả từ thời Sa hoàng với tư cách là căn cứ hải quân) vào năm 2014 mà không phải nổ súng là một đỉnh cao thành công của một chiến dịch kết hợp giữa tình báo - lật đổ - quân sự - chính trị. Và điều đó có thể khiến cho Putin tin rằng ông có thể tiến hành một chiến dịch tương tự ở quy mô lớn hơn, với sự tham gia của một lực lượng quân đội gấp 5 lần nhằm lật đổ Kiev. Trong lịch sử, Liên Xô đã tiến hành các chiến dịch tương tự và thành công ở Hungary năm 1956, Tiệp Khắc 1968, Afghanistan 1979 và Ba Lan 1980. Tính toán tới thực tế rằng NATO đã trang bị và huấn luyện các lực lượng Ukraine trong 8 năm trước đó, Putin đã tiến hành một chiến dịch lật đổ dưới hình thức một cuộc chiến (tuy nhiên nó lại không phải là một cuộc chiến đúng nghĩa như phân tích dưới đây)
Khởi đầu tiên, quân Nga tấn công tất cả các thành phố lớn với các vị trí quân sự quan trọng của Ukraine bằng tên lửa chính xác tầm xa. Kế đó là cuộc đổ bộ ở sân bay Antonov ngay sát nội đô Kiev và các cánh quân đồng loạt tiến vào Ukraine từ cả phía Bắc, Đông và Nam. Trong tuần đầu tiên, mọi người đã tưởng rằng đây là một cuộc chiến vùng Vịnh của Mỹ chống Sadam Hussein được lặp lại ở Đông Âu. Tuy nhiên, những diễn biến sau đó đã cho thấy đây là một chiến dịch lật đổ được tiến hành dưới dạng vỏ bọc của một cuộc chiến tranh và mọi tính toán của Putin đã không diễn ra như ông ta tính toán. Chiến dịch của Putin tuy mới nhìn thì giông giống các chiến dịch của Liên Xô và Mỹ trước đây nhưng về bản chất nó lại hoàn toàn khác. Người Nga sử dụng các phương pháp đã thành công ở Crimea năm 2014 với một quy mô lớn hơn nhiều nhưng lại thất bại vào năm 2022.
Chúng ta sẽ so sánh các điểm giống và khác nhau giữa chiến dịch tháng 2/2022 của Putin với các chiến dịch của Liên Xô và Mỹ trước đó. Vào năm 1956 tại Hungary, Liên Xô đã có sẵn 5 sư đoàn đầy đủ quân số chiến đấu ngay trên đất Hungary và tại các điểm trọng yếu nhất. Rất nhanh sau đó, số lượng này tăng lên 17 sư đoàn thiện chiến nhất của Hồng quân. Ngay sau khi lệnh can thiệp được ban ra, các đơn vị này dưới sự chỉ đạo của Zhukov đã tiến hành giải giáp các đơn vị Hungary và thực tế đã tấn công bằng vũ khí hạng nặng vào các đơn vị này khi có phản ứng. Quân đội Liên Xô cũng không chùn tay khi sử dụng vũ lực với các lực lượng dân sự nổi dậy của Hungary khi các lực lượng này nắm được vũ khí do quân đội Hungary bỏ lại. Với các yếu tố trên, cuộc can thiệp lật đổ đã nhanh chóng thành công dù rằng có đổ máu của cả quân đội lẫn dân thường Hungary. Quân đội Liên Xô rút về các vị trí của mình sau khi lực lượng chính trị thân Liên Xô tại Hungary lên nắm quyền.
Ở Tiệp Khắc năm 1968, khối Warsaw đã sử dụng 500 ngàn quân cùng lúc tiến vào Tiệp Khắc từ mọi hướng. Điều này đã làm tê liệt sự phản ứng của quân đội Tiệp Khắc khi các sỹ quan cao cấp của quân đội từ chối ra lệnh chống lại quân đội khối Warsaw.
Ở Afghanistan, quân đội Afghan rất yếu kém và gần như không chống cự khi quân Liên Xô tiến vào.
Tuy nhiên, tất cả các yếu tố thuận lợi giúp quân đội Liên Xô thành công ở trên đã không có hoặc bị thổi phồng trong trường hợp Ukraine. Ở Ukraine, phương Tây ước chừng Nga sử dụng vào đầu chiến dịch khoảng 120 ngàn quân với một lực lượng dự bị khoảng 80 ngàn ở tuyến 2. Sau 3 tuần, phương Tây thông báo rằng mới chỉ có khoảng 30% quân Nga tiến vào đất Ukraine. Như vậy về quân số, quân đội Nga có số lượng kém rất xa lực lượng mà Liên Xô sử dụng. Việc tấn công của quân Nga cũng cầm chừng không nhanh và cương quyết như quân đội Liên Xô.
Để bù lại cho cách thức trên, quân Nga sử dụng vũ khí tầm xa và không quân tấn công các căn cứ quân sự của Ukraine với phương thức làm người ta nhớ lại cách Mỹ tấn công Iraq năm 1990. Tuy nhiên, khác với cách thức mà Mỹ và NATO tiến hành ở Iraq và Nam Tư, các cuộc tấn công của Nga không phá huỷ các cơ sở hạ tầng về giao thông, vận tải, năng lượng, thông tin của dân sự mà chỉ tập trung vào các cơ sở quân sự. Điều đó dẫn tới việc trong thời gian đầu, nhiều người Ukraine có thể quay phim các cuộc oanh tạc giống như đang xem một show diễn truyền hình thực tế chứ không phải là một cuộc chiến tranh và tổng thống Zelensky cùng các đồng sự có thể hàng đêm livestream kêu gọi kháng chiến. Ở Iraq và Nam Tư, các phương tiện truyền thông công cộng như truyền hình, phát thanh bị tập trung đánh phá ngay từ đầu và về cơ bản, không có thông tin nào từ phía bên bị đánh lọt ra bên ngoài. Chúng ta có thể nhớ rằng CNN trở thành một hãng tin hàng đầu thế giới vì là nguồn cung cấp thông tin bằng hình ảnh duy nhất cho thế giới từ trong lòng Baghdad bị ném bom. Chúng ta có thể hiểu rằng tổng thống Putin, ngay cả khi bắt đầu cuộc chiến, vẫn hy vọng rằng có thể có một cuộc đàm phán và một giải pháp cho vấn đề. Đó là lý do phái đoàn đàm phán hoà bình của 2 bên đã bắt đầu gặp nhau rất sớm sau khi cuộc chiến nổ ra và quân Nga đã không đánh phá Ukraine như Mỹ đã làm ở Iraq.
Tuy nhiên, khác với Crimea, người Nga đã không thể lặp lại hình ảnh “người lịch sự” như hồi 2014. Ở Crimea, các đơn vị quân đội Nga đã đóng sẵn ở trên bán đảo và rất nhanh chóng bao vây các đơn vị Ukraine trong doanh trại của họ. Các đơn vị Ukraine và Nga ở đây cũng có mối quan hệ trong thời gian dài nên họ đã không nổ súng vào nhau. Và quan trọng hơn là vào thời điểm Nga tiến hành lật đổ, trong lịch sử giữa họ không có một cuộc chiến đổ máu nào. Thực tế, rất nhiều quân nhân Ukraine ở Crimea sau này đã chuyển sang phục vụ trong quân đội Nga và sỹ quan Ukraina có chức vụ cao nhất trong quân đội Nga sau khi sang hàng là người đã trở thành phó tư lệnh hạm đội Baltic, hạm đội mạnh nhất của Hải quân Nga.
Tuy nhiên, vào năm 2022 các sự kiện diễn ra đã hoàn toàn khác. Tám năm đánh nhau ở Donbass và chính sách bài Nga ở Ukraine đã khiến cho tình hình thay đổi hoàn toàn. Các đơn vị Nga tiến qua các khu dân cư của Ukraine bị phục kích ở cự ly gần. Khác với giai đoạn sau này của cuộc chiến (khi người Nga bắn phá tan hoang một khu dân cư trước khi tiến vào) thì ở giai đoạn đầu, các đơn vị bộ binh thọc sâu của Nga chỉ bắn lại khi họ gặp phải sự kháng cự. Điều này dẫn đến một số trường hợp như ở Gostomel gần Kiev, các đơn vị lính dù của Nga với trang bị xe bọc thép nhẹ bị phục kích ở các cự ly rất gần. Hầu hết các binh sỹ bị tiêu diệt bất ngờ khi họ đang ngồi bên ngoài, trên xe bọc thép. Chiến thuật mà Nga dùng để giành trí óc và trái tim của người Ukraine đã bị các đơn vị đặc nhiệm Ukraine tận dụng triệt để.
Một trong những dấu hiệu rõ nhất của một cuộc chiến dịch tình báo - quân sự - lật đổ - chính trị ở giai đoạn đầu chiến tranh là người ta không biết cơ quan nào, và các nhân nào là người chỉ đạo cuộc chiến. Các cánh quân được đánh dấu Z, V, O… nhưng không ai biết là ai là chỉ huy của các đơn vị này. Bản thân các đơn vị này dường như tiến hành chiến tranh một cách độc lập.
Ở phía Bắc, Kiev, các đơn vị tiến thọc sâu vào bao vây Kiev, Summy và Kharkov nhưng không tạo ra bất kỳ một vòng vây và tiêu diệt một lực lượng chủ lực nào của quân Ukraine. Các mũi thọc sâu này nhìn trên bản đồ thì ngoạn mục nhưng trên thực tế không có một chiến tuyến rõ ràng được thiết lập. Các đơn vị này khi tiến công thậm chí không cắt các hệ thống camera giao thông dân sự nên có giai đoạn ngồi ở Kiev có thể quan sát được các di chuyển của quân Nga qua hệ thống này. Việc thọc sâu nhưng không chú trọng tiêu diệt lực lượng đối phương khiến cho các đơn vị ở hậu cần bị các nhóm nhỏ đặc nhiệm của Ukraine chặn đánh. Điều này lại dẫn tới việc các đơn vị thọc sâu bị thiếu hụt về đạn dược và nhiên liệu. Một yếu tố quan trọng khác là pháo binh cũng không thể hiện ở đây. Các đơn vị Nga chủ yếu là trang bị nhẹ, thọc sâu nên không có các đợt pháo chuẩn bị. Ngược lại, quân Ukraine pháo kích các đoàn hành tiến của quân Nga diễn ra thường xuyên.
Ở vùng Donbass, các cuộc tấn công cũng không mạnh mẽ do lực lượng của Nga ở đây chủ yếu là dân quân Donbass. Vì việc thiếu quân chính quy này họ chủ yếu sử dụng pháo binh là vũ khí để chế áp đối phương.
Cánh quân phía Nam của Suvorikin là cánh quân tiến hành cuộc chiến một cách bài bản nhất. Không có nhiều hình ảnh cuộc tấn công ở phía Nam này, tuy nhiên các hình ảnh chủ yếu cho thấy cánh quân Nga này đã tập trung vào việc huỷ diệt các đơn vị của Ukraine bằng hoả lực của binh chủng hợp thành. Nếu như ở phía Bắc, cảnh các đoàn xe Nga bị phục kích cháy là phổ biến thì ở phía Nam, cảnh trực thăng K-52 hoặc pháo hoả lực của Nga huỷ diệt các đoàn xe đang rút lui của Ukraine lại là chủ yếu. Sự thành công lớn nhất của cánh quân phía Nam là chiếm Kherson mà không phải đánh nhau và dồn toàn bộ lực lượng chủ lực của Ukraine ở phía Nam vào Mariupol (thành phố mà bộ tư lệnh mặt trận phía Đông của Ukraine chọn làm đại bản doanh) rồi bao vây, tiêu diệt và bắt sống họ. Sau đó, chính cánh quân này tiến lên phía Bắc và chiếm Severodonetsk và Lysychansk.
Việc 3 cánh quân hành động độc lập nên tiến hành chiến tranh theo các cách hoàn toàn khác nhau cho ta thấy điều có lẽ là sai lầm chiến lược của Putin trong việc tiến hành chiến tranh trên thực địa. Cánh quân phía Bắc được trang bị mạnh nhất, hỗ trợ mạnh nhất, hiện đại nhất, tiến nhanh nhất thì lại bị thiệt hại nặng nhất và không đạt được bất kỳ mục tiêu chiến lược, chiến thuật nào cả. Trên thực tế thì quân Ukraine lấy được từ cánh quân này tất cả các mẫu thiết bị quân sự hiện đại nhất mà quân Nga đem vào Ukraine từ xe chỉ huy tới các thiết bị chế áp điện tử. Và đặc biệt là họ thua đau trước chiến thuật du kích của Ukraine dù không có bất kỳ trận đánh lớn nào ở vùng này. Các đơn vị ở cánh này thuộc về quân khu miền Tây. Quân khu này được chỉ huy bởi tướng Zhuravlyov, một người thân cận với Putin.
Tướng Zhuravlyov có một lịch sử quân nhân có hai giai đoạn tham chiến. Đó là khi ông phục vụ với chức tham mưu trưởng quân đoàn 58, đơn vị đã tiến hành cuộc chiến tranh 5 ngày với Georgia năm 2008 và 5 tháng là tư lệnh lực lượng Nga ở Syria năm 2016. Sau đó, ông được phong làm phó tổng tham mưu trưởng quân đội Nga rồi về làm tư lệnh quân khu miền Tây. Quân khu có trang bị mạnh nhất, hiện đại nhất trong các quân khu của Nga. Tuy nhiên, có một điểm lưu ý là vào năm 2008, quân đoàn 58 đã giành chiến thắng trước quân đội Georgia không phải bằng sự chuẩn bị kỹ càng về kỹ thuật và hậu cần mà bằng sự dũng cảm của các binh sỹ. Đến giờ, hình ảnh tướng Khrulyov, tư lệnh của quân đoàn này sử dụng compa, thước kẻ và bản đồ để tính toán tọa độ (sau khi Mỹ vô hiệu hoá toàn bộ hệ thống GPS ở khu vực này sau khi quân Nga vượt biên giới) và mượn điện thoại vệ tinh của phóng viên (đổi lại cho việc để phóng viên đi theo quay phim các trận đánh) để liên lạc với bộ chỉ huy vẫn là một ví dụ điển hình cho việc không chuẩn bị đầy đủ và lạc hậu về kỹ thuật của quân đội Nga hồi 2008. Chính sự kiện này đã khiến cho Putin lên một kế hoạch đầy tham vọng để hiện đại hoá quân đội Nga như ngày nay. Tuy nhiên, có vẻ rằng căn bệnh không chuẩn bị của quân đoàn 58 năm 2008 đã lan tới cả quân khu miền Tây vào năm 2022 khi đa phần các xe tăng thiết giáp của Nga bị bỏ cho Ukraine bắt lại là do các lỗi kỹ thuật nhỏ.
Để công bằng, cũng cần nói rằng sự thất bại của cánh quân Bắc của Nga cũng có nguyên nhân chính là chiến thuật mà Putin yêu cầu họ sử dụng. Trong khi họ tiến hành thọc sâu để gây thanh thế, không chú trọng vào bao vây tiêu diệt sinh lực địch thì các phần khác của kế hoạch tác chiến đều thất bại. Ở Kiev, khi quân Nga áp sát thành phố đã không có bất kỳ lực lượng chính trị đối lập nào đứng ra lật đổ tổng thống Zelensky. Medvedchuck, lãnh đạo phe đối lập và được cho rằng Putin là cha đỡ đầu của con gái út của ông, đã không tổ chức được bất cứ lực lượng nào để lật đổ Zelensky. Ngược lại, ông ta đã phải lẩn trốn và cuối cùng bị bắt. Các tướng lĩnh Ukraine đã không hề phản chiến dù Putin chính thức kêu gọi công khai vào ngày thứ 4 của cuộc chiến. Các thành phần thân Nga, công khai hay bí mật đã bị nhanh chóng loại khỏi bộ máy của Ukraine. 2/6 thành viên đoàn đàm phán của Ukraine với Nga đã bị bắt vì cho là phản quốc hoặc biến mất. Khi các lực lượng nội gián không thể “trong ứng” thì cánh quân phía Bắc không thể “ngoại hợp”. Và phải mất gần 2 tháng thì quân Nga mới chấp nhận rằng chiến dịch “Crimea 2.0” đã thất bại và thay đổi chiến thuật. Trong thời gian 3 tháng đó, cánh quân phía Bắc của Nga đã chịu những tổn thất nặng nhất.
Ngày 10/4/2022, tướng Dvornikov, tư lệnh quân khu Nam của Nga được chỉ định là tư lệnh của quân Nga tại Ukraine. Tướng Dvornikov là người có kinh nghiệm chiến đấu thực tế. Ông là tư lệnh đầu tiên của quân Nga tại Syria và được phương Tây gọi là “Tên đồ tể” vì chính sách sử dụng hoả lực triệt để để trấn áp kẻ thù tại đô thị của ông ở Syria. Từ năm 2016 tới 2022, với tư cách là chỉ huy quân khu Nam, tướng Dvornikov thực sự là người nắm rõ tình hình chiến trường Ukraine. Dưới sự chỉ đạo chung của ông, quân Nga đã chiếm Kherson, Mariupol, Melitopol nối liền Crimea với Donbass trên đất liền và cuối cùng là chiếm Severodonetsk và Lysychansk. Tuy nhiên sau đó ông bị thay thế bởi một người khác thân cận Putin hơn là tướng Zhidko.
Tướng Zhidko có hai khoảng thời gian phục vụ gần với Putin đó là năm 2017-2018 khi ông là phó tổng tham mưu trưởng quân đội Nga và từ 2021 tới 7/2022 với tư cách là tổng cục trưởng tổng cục chính trị quân đội Nga. Chính thời gian quân Nga nằm dưới sự chỉ đạo của tướng Zhidko thì thảm hoạ Lyman xảy ra. Cả một vùng rộng 2.000 km2 phía Nam Kharkov được quân Ukraine giải phóng trong 3 tuần. Nguyên nhân chính là ở khu vực chiến lược này (nơi mà quân Nga trước đó phải mất gần 2 tháng đánh nhau mới giành được và từ khu vực này có thể uy hiếp cả Kharkov từ phía Nam và Slovyansk từ phía Bắc), quân Nga không có lực lượng chủ lực nào đáng kể. Thành phố tuyến đầu Balaklyia được phòng vệ bởi 2 đại đội cảnh sát vũ trang đã phải chống cự với 20 tới 30 ngàn quân Ukraine dù rằng đòn tấn công này đã được cảnh báo nhiều lần cho bộ chỉ huy Nga. Quân Nga chỉ cứu được một chút danh dự khi các lực lượng của tướng Lapin được tung vào đã kịp giữ được các tuyến đường quan trọng nhất cho quân Nga rút lui. Chiến thắng này xứng đáng cho điểm 10/10 cho phía Ukraine cả về lên kế hoạch lẫn thực hiện tấn công. Cũng trong giai đoạn của Zhidko là tổng tư lệnh và trước trận Lyman, quân Nga ở Severodonetsk và Lysychansk được nghỉ phép và về quê. Việc nghỉ phép này được tuyên truyền rộng rãi trên TV. Sau đó, mặt trận gần như không có biến đổi ngoài các trận đấu pháo hàng ngày giữa hai bên.
Đến giờ thì có thể thấy rõ ràng rằng giữa các tướng lĩnh quân sự có kinh nghiệm chiến trường của Nga, cụ thể là Dvornikov, người có kinh nghiệm chiến đấu thực tiễn ở Syria và 6 năm nắm bắt chiến trường Ukraine với Putin đã có sự mâu thuẫn sâu sắc về cách thức tiến hành chiến tranh. Vào thời điểm này, các hoạt động ngoại giao của Nga được đẩy mạnh. Nga đàm phán và chấp nhận trao trả hơn 200 tù binh bị bắt tại Mariupol để đổi lấy gần 50 tù binh Nga và Medvedchuck qua sự môi giới của Thổ Nhĩ Kỳ. Nga cũng chấp nhận vai trò trung gian của Thổ Nhĩ Kỳ trong việc đạt được thoả thuận cho Ukraine vận chuyển lúa mì xuất khẩu qua đường biển. Nga và Thổ Nhĩ Kỳ cũng đạt được các tiến bộ trong đàm phán và kết quả sau này là việc Thổ Nhĩ Kỳ trở thành trung tâm trung chuyển khí gas của Nga cho Nam Âu. Cũng trong giai đoạn chiến trường yên ắng này các nước châu Âu đã ngừng các hỗ trợ quân sự cho Ukraine (trong tháng 7/2022 không có viện trợ vũ khí, sang tháng 8.2022 thì có nhưng số lượng thấp hơn nhiều so với yêu cầu của nước này). Đồng thời, do chiến trường Ukraine tạm lắng nên các vấn đề nội bộ của châu Âu lại nổi lên và 4 chính phủ châu Âu lớn tiếng chống Nga nhất đã sụp đổ. Chi tiết của các thắng lợi của Nga trên mặt trận ngoại giao sẽ được trình bày ở một bài khác.
Nói một cách ngắn gọn là trong thời gian “im ắng” này, Nga đã đạt được các bước tiến lớn về mặt tạo thế cho bàn cờ quốc tế. Chính vì điều những thắng lợi này mà có lẽ Putin đã chọn cách hạ nhiệt của các trận đánh trên chiến trường để khuyến khích Ukraine đàm phán. Điều này, chắc chắn đã khiến cho những tướng như Dvornikov không đồng ý (vì không tin vào khả năng có thể đàm phán với Ukraine), và vì thế ông phải ra đi và bị thay thế bởi một tướng thân cận Putin và với tư cách là tổng cục trưởng tổng cục chính trị có thể hiểu được bàn cờ lớn hơn.
Tuy nhiên, đổi lại thắng lợi to lớn về mặt quốc tế (sẽ nói ở phần khác) thì quân Nga lại gặp 1 thảm hoạ về quân sự - đó là sự thất bại tại Nam Kharkov. Tiếp đó, đường ống North Stream bị phá huỷ hoàn toàn bởi các vụ nổ bom khiến cho các nước châu Âu như Đức không thể quay lại mua dầu và khí của Nga. Điều này khiến cho Putin buộc phải thừa nhận rằng sự trung thành và hiểu biết về chính trị của Zhidko là không đủ và thất bại trên chiến trường có thể khiến cho thành công của mọi thế cờ quốc tế trở nên vô nghĩa. Điều này dẫn tới việc Surovikin lên nắm chức tổng tư lệnh quân đội Nga tại Ukraine.
Surovikin có lẽ là một tướng lĩnh có nhiều tố chất giống nguyên soái Zhukov. Thứ nhất, ông là một người cương quyết thi hành mệnh lệnh quân sự và rất nghiêm kỷ luật với bên dưới. Ông đã tham chiến ở Afghanistan. Vào năm 1991, khi là chỉ huy của một tiểu đoàn và được điều động về Moscow theo lệnh của Uỷ ban cứu nguy lâm thời nhằm lật đổ Gorbachev, đơn vị của ông đã bị những người biểu tình chặn lại. Khác với các đơn vị khác hoặc rút lui hoặc bỏ vũ khí lại, đơn vị của ông đã bắn chết 2 người biểu tình và 1 người khác đã bị xe tăng cán khi chặn xe. Surovikin bị tạm giam 7 tháng trước khi được tuyên là vô tội. Năm 2004, khi ông là sư đoàn trưởng, một sư đoàn phó phụ trách hậu cần của ông đã tự sát bằng súng trước mặt ông và phó tư lệnh quân khu sau khi bị ông phê bình vì tình trạng hậu cần của đơn vị. Sự việc này cũng được quân pháp xác định rằng Surovikin không có lỗi. Trong giai đoạn ông ở Syria năm 2017 với tư cách là tư lệnh quân Nga ở đó, quân đội Syria đã giải phóng được một vùng lãnh thổ tương đương với 50% vùng lãnh thổ mà họ chiếm được trong suốt 11 năm từ 2011 tới 2022. Đây cũng được coi là một bước ngoặt trong cuộc chiến ở Syria và sau thời điểm này không ai còn nghi ngờ việc chính phủ của Assad sẽ đứng vững. Surovikin cũng từng đứng đầu lực lượng quân cảnh, một lực lượng được Putin lập ra để chính thức xử lý tình trạng vô kỷ luật trong quân đội Nga. Các sự kiện đó cho thấy Surovikin là một viên tướng chiến trường thực thụ và ông đặc biệt quan tâm tới kỷ luật, hậu cần và quyết tâm sắt đá khi thực thi nhiệm vụ. Ông cũng không ngại các va chạm chính trị và vấn đề dân tuý khi đưa ra các quyết định quân sự của mình.
Cùng với việc đặt Surovikin làm tư lệnh, Nga đã tổ chức trưng cầu dân ý và tiến hành sáp nhập 4 tỉnh của Ukraine vào Nga. Putin cũng tuyên bố việc tái ngũ của 300 ngàn cựu binh, chuyển hệ thống quốc sang tình trạng sản xuất thời chiến. Đồng thời, sau vụ tấn công cầu Kerch tại Crimea, quân Nga đã bắt đầu các cuộc tấn công có hệ thống vào cơ sở hạ tầng của Ukraine dẫn tới việc phá huỷ các hệ thống điện, nước và các cơ sở lưu trữ nhiên liệu. Điều này dẫn tới việc hàng loạt các thành phố lớn trong các khu vực sẽ xảy ra chiến sự trong thời gian tới bị mất điện, nước. Điều này sẽ dẫn tới một làn sóng di tản của người dân khỏi các thành phố (một yếu tố quan trọng cho việc sử dụng hoả lực của quân Nga khi tấn công các thành phố này).
Về quân lực, ngoài 300 ngàn lính tái ngũ, tổng thống Putin cũng đã ký lệnh tuyển thêm 120 ngàn cho lực lượng quân đội theo lịch tuyển quân hàng năm. Đại tá Doughlas McGregor, cựu cố vấn của ngoại trưởng Mỹ dưới thời Trump cho rằng vào cuối năm, quân Nga sẽ triển khai khoảng 600 tới 700 ngàn quân cho một tấn công kinh điển ở Ukraine.
Với gần 1,2 triệu người trong lực lượng vũ trang và 420 ngàn người mới được bổ sung, việc tung vào Ukraine 600 tới 700 ngàn quân sẽ khiến nhiều khu vực phòng thủ trên lãnh thổ mênh mông của Nga bị bỏ trống. Tuy nhiên, với tình hình thực tế đã diễn ra 8 tháng qua ở Ukraine, tôi tin rằng Nga sẽ không thể giải quyết vấn đề với số lượng 200-300 ngàn quân. Vào năm 2014, khi quân đội Nga đụng độ với quân đội Ukraine ở gần Devaltsevo quân Nga đã có thể đánh thẳng đến Kiev vì tình trạng yếu kém và không muốn chiến đấu của quân đội Ukraine lúc đó. Cần nhớ rằng vào thời điểm đó lực lượng nòng cốt tấn công Donbass là các đơn vị vũ trang tư nhân như Azov chứ không phải quân đội Ukraine. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, nền kinh tế của Nga chưa được chuẩn bị cho một cuộc cấm vận tổng thể triệt để của phương Tây và vì thế Nga chọn cách ký kết thoả thuận Minsk. Tuy nhiên, sau 8 năm, với sự hỗ trợ của NATO, quân đội Ukraine đã trở thành một lực lượng quân sự lớn thứ hai trên lục địa châu Âu chỉ sau quân Nga, và thực tế 8 tháng qua cho thấy dù bị thiệt hại nặng nề nhưng họ không phải là quân đội Ukraine của 8 năm trước.
Song, vào năm 2022, nền kinh tế của Nga đã được chuẩn bị tốt cho các cuộc cấm vận và thực tế là vào thời điểm hiện nay, nền kinh tế của các nước châu Âu đang rơi vào một cuộc khủng hoảng mà hồi tháng 2 không ai ngờ tới. 6 chính phủ châu Âu đã sụp đổ và các quốc gia này đã bắt đầu mệt mỏi về cuộc chiến Ukraine. Đồng thời, Ukraine đã lâm vào tình trạng phá sản. Toàn bộ nhà nước Ukraine và hệ thống an sinh xã hội sẽ không thể hoạt động được nếu không có viện trợ của nước ngoài. Quân đội của Ukraine cũng đã thiệt hại nhiều về nhân lực và thực tế là không còn đạn dược lẫn vũ khí do họ tự sản xuất. Vũ khí và trang thiết bị chiến tranh của Ukraine hiện nay hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài. Điều này có nghĩa là người Nga đang ở thời điểm tốt nhất cho việc giải quyết vấn đề Ukraine “once and for all” (một lần và mãi mãi). Nếu Nga không làm bây giờ thì 10 năm nữa, họ sẽ không còn cơ hội nữa. Điều đó cho thấy việc Nga sẽ tung vào cuộc chiến tới số lượng quân lớn là điều hoàn toàn hiểu được.
Tuy nhiên vấn đề của người Nga là với một lực lượng vũ trang gần 1,2 triệu người (và đang được bổ sung thêm 400 ngàn quân tái ngũ và tuyển mới) thì việc đưa vào Ukraine 700 ngàn người sẽ dẫn tới các lỗ hổng rất lớn trong lực lượng phòng thủ nước Nga. Mặt khác, tình hình này sẽ nghiêm trọng hơn khi quân đội NATO và Mỹ đã đưa sang phía Đông giáp với Nga gần 40 ngàn quân NATO cùng các trang bị vũ khí hạng nặng. Để đảm bảo an ninh cho mình khi huy động số lượng quân lớn vào Ukraine, người Nga đã viện tới vũ khí hạt nhân. Việc người Nga ngày hôm qua tiến hành bắn thử tên lửa RS-28 Sarmat (mà phương Tây gọi là Satan 2) và công bố rằng đã có 50 tên lửa loại này được sản xuất cho thấy Nga đang ngầm cảnh báo phương Tây về việc họ sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân nếu NATO sử dụng quân đội để tấn công vào nước Nga để cứu trợ cho Ukraine. Tên lửa Satan 2 là loại tên lửa liên lục địa mạnh nhất từ trước tới nay về số lượng đầu đạn hạt nhân mang theo và tốc độ nhanh nhất. Nếu như tên lửa Satan 1 được Nga thử 17 lần trước khi đưa vào sản xuất hàng loạt và đưa vào trực chiến thì ngay từ lần thử hôm qua, Nga đã tuyên bố là họ đã đưa vào sản xuất hàng loạt và đã có khoảng 50 tên lửa sẵn sàng chiến đấu. Rõ ràng là Putin không đi theo con đường của Liên Xô - tuyên bố chiến tranh, tổng động viên và đưa đất nước vào tình trạng kham khổ thời chiến. Ông ta chọn cách sử dụng vũ khí hạt nhân để răn đe phương Tây trong khi vẫn duy trì tình trạng hoà bình ở trong nước mà vẫn tăng quân được cho cuộc chiến ở Ukraine.
4. Kết luận:
Nói tóm lại, nước Nga đã chuyển sang giai đoạn 1 cuộc chiến tranh kinh điển với Ukraine bởi các điều sau.
Thứ nhất, Putin đã chấp nhận việc chuyển tình trạng xung đột ở Ukraine sang một cuộc chiến tranh vệ quốc bằng việc sáp nhập 4 tỉnh vào nước Nga.
Thứ hai, ông ta đã tiến hành động viên cục bộ để bổ sung quân cho 1 cuộc chiến tranh quy mô lớn và khởi động tình trạng sản xuất thời chiến của nền công nghiệp quốc phòng.
Thứ ba, Putin đã chấp nhận đặt một viên tướng có năng lực quân sự thực sự và không bị ràng buộc bởi các quyết định chính trị hay dân tuý lên làm chỉ huy cuộc chiến tranh. Ông ta đã ngầm thừa nhận rằng cách thức tiến hành chiến tranh theo kiểu “điệp viên KGB” trong giai đoạn đầu cuộc chiến của ông đã thất bại và ông ta để cho Surovikin tiến hành cuộc chiến tranh theo cách thức tiến hành chiến tranh kinh điển. Điều này gợi cho chúng ta nhớ lại việc Stalin chấp nhận lùi lại và để Zhukov trở thành phó tổng tư lệnh tối cao của Hồng quân và tiến hành chiến tranh theo các quy luật của nó. Tương tự là việc Stalin loại bỏ vai trò của hội đồng quân sự trong các đơn vị quân đội (nơi chính uỷ có một phiếu quyết định tương đương với chỉ huy quân sự), Putin đã loại bỏ tướng Zhidko (nguyên tổng cục trưởng tổng cục chính trị) để giao quyền cho một vị tướng quân sự thuần tuý. Giống như Stalin chấp nhận và làm theo Zhukov khi ông này có quan điểm trái ngược với Stalin thì Putin cũng đã chấp nhận các quyết định thuần tuý quân sự của Surovikin dù điều đó khiến ông tổn thất về uy tín chính trị trong nước.
Trong trận Stalingrad - Zhukov đã quyết định trì hoãn việc mở cuộc tấn công bao vây cho tới khi tập hợp đủ lực lượng dù điều đó trái với tình hình nguy ngập của Stalingrad và yêu cầu cương quyết của Stalin là tấn công mà không đợi chuẩn bị xong. Trong trận Kursk, bất chấp việc Stalin muốn tấn công quân Đức trước (vì lực lượng của Hồng quân hơn quân Đức từ 2 tới 2,5 lần trên từng khu vực) thì Zhukov vẫn quyết định phòng thủ và chỉ phản công sau khi quân Đức đã mất sức trong việc đột phá phòng tuyến của Hồng quân. Ở Ukraine năm 2022, khác với tướng Zhidko vẫn cố giữ khu vực Nam Kharkov bằng một lực lượng quá mỏng mà không rút lui và dẫn tới cuộc bại trận thảm hại sau đó thì Surovikin đã quyết định rút khỏi Kherson, dù đó là thủ phủ một tỉnh của Nga và quân Nga đã chuẩn bị phòng thủ khu vực này từ lâu và đã thành công trong các cuộc phòng vệ trước đó. Có lẽ việc để Surovikin và Shoigu diễn kịch trên truyền hình về lệnh rút quân là hành động vừa để đỡ mất thể diện cho cá nhân cho Putin (anh Surovikin thì xin còn anh Shoigu thì đồng ý chứ không phải là tôi - đồng bào nhớ nhé) thì việc đó cũng có thể là một hành động gián tiếp tuyên bố với công luận rằng Putin sẽ để cho các tướng lĩnh quyết định các việc quân sự mà không để các yếu tố chính trị, dân tuý can thiệp vào. Việc thứ hai là Nga đã chấp nhận việc sử dụng vũ khí UAV loại rẻ của Iran để tiến hành phá huỷ các hệ thống cung cấp điện và nước phục vụ dân sinh của Ukraine. Điều này có nghĩa là ông đã tách chức năng bình định (giành được con tim và trí óc của người dân Ukraine) khỏi các hành động quân sự. Điều này có nghĩa là quân đội Nga sẽ không còn phải chiến đấu theo kiểu tự trói tay như hồi tháng 2 ở Kiev nữa.
Nói một cách ngắn gọn là về tình hình chung, nếu Nga không giải quyết vấn đề Ukraine vào thời điểm này thì mọi việc trì hoãn sẽ chỉ dẫn tới việc vấn đề Ukraine sẽ không bao giờ có thể giải quyết nữa.
Tiếp đó, Putin đã khởi động quá trình đưa nước Nga vào một cuộc chiến tranh vệ quốc thì quá trình này sẽ gần như không thể đảo ngược được.
Thứ ba, nền kinh tế quốc phòng của Nga đã chuyển sang sản xuất thời chiến và đủ sức cung cấp vũ khí cho Nga tiến hành cuộc chiến tới cùng.
Thứ tư, sự ủng hộ của hai đối tác quan trọng nhất của Nga là Trung Quốc và Ấn Độ đã trở nên mạnh mẽ trên cả phương diện ngoại giao lẫn trên thực tế. Hai quốc gia này đang cung cấp nguồn tài chính giúp Nga thay thế sự thiếu hụt từ việc bán hàng cho châu Âu. Chừng nào hai quốc gia này còn mua dầu và khí của Nga, và hơn nữa lại mua bằng đồng tiền của rúp chứ không phải bằng đô la thì Nga còn có thể tiếp tục cuộc chiến Ukraine. Và thực tế cho thấy rằng sự ủng hộ này của Ấn Độ và Trung Quốc sẽ bền lâu hơn nhiều sự ủng hộ của phương Tây với Ukraine vì sự ủng hộ của Trung Quốc và Ấn Độ với Nga mang lại lợi ích kinh tế thực sự trước mắt lẫn lâu dài cho hai nước này. Trong khi đó, sự ủng hộ của châu Âu đối với Ukraine đang khiến cho họ thấy rõ rằng càng ủng hộ thì họ lại càng đang tự bắn vào chân mình.
Thứ năm, việc tấn công vào các nhà máy điện hạt nhân bên bờ sông Dnieper cũng như khả năng phá các đập trên sông này khiến cho Nga thấy rằng họ sẽ phải kiểm soát toàn bộ 2 bờ của con sông Dnieper. Nếu không làm vậy thì thảm hoạ vỡ đập hay nhà máy điện hạt nhân bị tấn công sẽ trường xuyên đe doạ Nga trong thời gian tới. Điều đó có nghĩa là không chỉ có vùng đông sông Dnieper cần bị chiếm mà người Nga sẽ cần phải lập ra một số nước cộng hoà bên bờ Tây con sông này tới tình trạng giống như hai nước cộng hoà Donetsk và Luhansk trước đây. Tất nhiên là người Nga sẽ không tin vào những thoả thuận mà Ukraine có thể sẽ ký sau khi 2 thoả thuận Minsk đã không được thực hiện trong suốt 8 năm qua mà ngược lại Ukraine còn chuẩn bị cho một cuộc tấn công tiêu diệt hai nước cộng hoà tự xưng này.
Cuối cùng, Putin đã quyết định để các tướng lĩnh quân sự điều hành cuộc chiến tranh theo đúng cách thức mà một cuộc chiến tranh đòi hỏi.
Với tất cả những điều trên, tôi cho rằng khả năng đạt được một thoả thuận hoà bình giữa Ukraine và Nga là gần như không có. Tổng thống Zelensky, chừng nào còn tại vị, sẽ không thể nào chấp nhận được việc Crimea và 4 tỉnh miền Đông trở thành lãnh thổ của Nga và các vùng mà Nga sẽ chiếm thêm làm vùng đệm trở thành các nước cộng hoà tự trị. Ngược lại, tổng thống Putin cũng không thể chấp nhận việc các vùng lãnh thổ mới của Nga quay trở về lại Ukraine hoặc sống trong phập phồng lo sợ bị pháo kích như Donetsk và Luhansk trong 8 năm qua. Điều đó có nghĩa là một chiến dịch tấn công lớn sắp nổ ra ở vùng Donbass và một giải pháp hoà bình chỉ có thể đến khá lâu sau khi chiến dịch này kết thúc.
LƯU Ý VỀ BẢN QUYỀN:
Sai lầm lớn nhất của Nga là thua kém ở mặt trận tình báo và gián điệp. Có lẽ sau những thất bại trong chiến lược và chiến thuật đã đề ra thì giới tinh hoa Nga phải xem xét lại thật kỹ lưỡng về vấn đề tình báo.
Tuy rằng có những thất bại ở đầu cuộc chiến nhưng đất nước Nga luôn biết rút ra những kinh nghiệm và bài học để càng đánh càng mạnh hơn.
Về ý kiến cá nhân của tôi thì từ đầu cuộc chiến tôi đã đưa ra quan điểm của mình là muốn bớt thương vong phải đánh phủ đầu, dồn dập chứ vừa đánh vừa trói mình vậy thì chả đi đến đâu, và thực tế chiến trường đã cho thấy rõ điều đó.
Tuy vậy, tôi vẫn ủng hộ hòa bình bằng cách cho Nga có chiến thắng thật nhanh, cho nhân dân Ukraine và Nga bớt cảnh lầm than cũng như để giữ sức cho chặng đường dài sắp tới vì đây mới chỉ là khởi đầu mà thôi
Nga không đánh để chiếm toàn bộ Ukr, họ đánh và chiếm dọc bờ biển Ukr để NATO không còn cớ đặt căn cứ quân sự ở Ukr tại biển Đen. Từ đó NATO không thể kiềm hãm Nga tiếp tục gây ảnh hưởng tại Trung Đông
Mục đích của Nga khi chiếm vùng duyên hải biển Đen ở Ukr là để duy trì hạm đội biển Đen, từ đó Nga mới có thể kết nối với thế giới bên ngoài và tăng cường sự ảnh hưởng đến Trung Đông. Có thể thấy từ đầu cuộc chiến, ý định của Nga là lật đổ chính quyền Ukr, để Ukr thành 1 nước thân Nga và tiếp tục cho phép Nga duy trì hạm đội biển Đen, tuy nhiên kế hoạch ko thành công, vì Ukr đã giải quyết tình trạng nội gián thành công. Nga đã chuyển sang giai đoạn 2 và ko cần thiết phải tiêu diệt chính quyền Ukr mà cố gắng giữ phần đất duyên hải. Vì việc mở rộng đất đai đối với Nga và nhập thêm dân số chẳng có lợi gì cả, mất công giữ đất và tốn công nuôi dân
Như đã biết, Trung Đông là nguồn sống của thế giới, nước nào nắm giữ nó sẽ điều khiển được cả thế giới vì nguồn dầu mỏ tại đây. Vì đó cũng chính là điều mà Mỹ đã luôn chi phối các nước tại Trung Đông trong nhiều thập kỷ, biến thành các nước thành đồng minh, còn những nước nào có ý chống thì sẽ bị tiêu diệt.
Muc đích của Mỹ khi dùng cuộc chiến tại Ukr để chiếm lại các vùng đất mà Nga chiếm của Ukr tại biển Đen, sau đó xây dựng căn cứ quân sự tại đây, rồi gây sức ép với TNK để bóp nghẹt đường ra biển Đen của Nga. Khi Nga không còn vươn mình tới Trung Đông thì Mỹ vẫn sẽ vẫn tiếp tục ngôi bá chủ vì nắm được Trung Đông. Còn đối với Nga mất cửa ra biển Đông và không thể lôi kéo TNK về phía mình thì là 1 thất bại lớn, vì các vùng biển khác của Nga không thuận lợi cho việc tiếp cận Trung Đông và cả thế giới.
Có thể thấy toàn bộ cuộc chiến của Nga chỉ xảy ra tại khu vực xung quanh biển Đen, ngoài ra Nga cũng ký hợp đồng khí đốt với TNK để lôi kéo nhằm để tàu Nga được ra vào biển Đen. Vì sự ảnh hưởng của Nga tại Trung Đông hiện nay lớn hơn Mỹ, mà mất Trung Đông thì đồng Đô Mỹ cũng chẳng còn giá trị, nên Mỹ dùng cuộc chiến này để ngăn sự ảnh hưởng quá lớn của Nga trong thời gian vừa qua. Nếu để các nước Trung Đông rơi hoàn toàn vào tay Nga thì Đồng Đô Mỹ không những mất giá trị, mà ngay cả chính đồng minh Mỹ cũng sẽ theo Nga và nguy cơ NATO tan vỡ là đương nhiên. Từ đó Mỹ mất toàn bộ quyền hành trên toàn thế giới
Thế nên từ đây cuộc chiến giữa Nga và Ukr sẽ chẳng có biến chuyển gì, nếu có kịch tính xảy ra thì Ukr có thể sẽ mất thêm Nikolaev vs Odessa. Còn nếu bình thường thì sẽ ko có chuyện xảy ra cả, Nga sẽ ko chiếm thêm và để Odessa cho Ukr xuất khẩu ngũ cốc. Như vậy Nga coi như đảm bảo được đường ra biển Đen và tiếp tục gây ảnh hưởng tại Trung Đông và Bắc Phi, tiếp tục thực hiện ý đồ lật đổ đồng Đô và chi phối châu Âu, thậm chí cả thế giới. Còn Ukr nếu ko lấy lại toàn bộ đất đai thì Zelensky sẽ là tội đồ, chuyện ông này sẽ ra đi sẽ sớm thôi. Còn Mỹ nếu mất ảnh hưởng tại Trung Đông thì không còn chi phối châu Âu và cả thế giới