CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) – Phần 6.
Cho tới giờ, người Nga thua trên biển và không thắng ở trên không.
Ở phần 5 chúng ta đã bàn về việc người Nga thành công trong việc đánh quỵ cánh Nam của quân Ukraine trong giai đoạn 1 và tiếp đó là đánh tổn thất nặng cánh Đông của Ukraine trong giai đoạn 2 của cuộc chiến. Ở phần 5 tôi cũng đã nói rằng mặc dù có một loạt chiến thắng như vậy nhưng giữa bộ chỉ huy quân đội Nga tại Ukraine và Moscow có những mâu thuẫn trầm trọng phát sinh và kết quả là tướng Dvornikov, tổng chỉ huy quân Nga ở Ukraine phải ra đi dù ông đã góp phần rất lớn cho những chiến thắng của quân Nga trong giai đoạn 1 và 2. Ở phần 6 và phần 7, chúng ta sẽ bàn về việc này.
Điều cần nói ngay từ đầu là sự mâu thuẫn giữa bộ chỉ huy quân Nga ở Ukraina với Moscow không phải là ở vấn đề liệu có phải tiến hành cuộc chiến tranh hay không mà là ở chỗ cách thức khắc phục những sai lầm chí tử ở tầm chiến lược quân sự của họ khi chuẩn bị cho chiến tranh trong gần 1 thập kỷ trước đó và sai lầm chiến thuật khi họ mở màn chiến tranh.
Nếu như ở các phần trước, các bạn thấy rằng người Nga đã chuẩn bị chiến tranh từ lâu một cách có hệ thống và những gì diễn ra trên thực địa có vẻ như đạt được một phần các mục đích chính mà Moscow đặt ra thì các bạn mới chỉ đúng một phần. Người Nga, bất chấp việc họ tính toán các bước cho chiến tranh với các bước nghĩ rất xa và các phương án dự phòng như các danh thủ cờ vua huyền thoại thời Liên Xô là Karpov và Kasparov thì họ cũng đã mắc những sai lầm có tính cốt tử và những sai lầm này sẽ còn ám ảnh quân đội Nga trong nhiều năm tới. Chương trình cải tổ và hiện đại hóa quân đội của Nga cho những kết quả những ấn tượng trong cuộc chiến Syria, cuộc xâm chiếm Crimea (mà không cần phải nổ súng) và các cuộc đụng độ trực tiếp với quân đội Ukraine tại Donbass 2015 (khi Nga nói rằng họ không đưa quân đội chính quy vào giao chiến với quân Ukraine và những người lính dù Nga bị bắt được Putin giải thích là “đang trong kỳ nghỉ phép” hoặc “đi lạc”). Tuy nhiên, vào những tháng đầu của cuộc chiến 2022, bất chấp những tổn thất nặng nề phải chịu, quân đội Ukraine đã khiến cho Moscow nhận ra rằng việc cải tổ quân đội cũng như cách thức tiến hành chiến tranh của họ đã có những vấn đề nghiêm trọng. Sự vấn đề này nằm không chỉ là vấn đề cho một quân, một binh chủng cụ thể mà là ở tất cả các lĩnh vực – từ cơ cấu, nhiệm vụ của các binh chủng tới các chủng loại vũ khí và cách thức tổ chức quân đội.
Các sai lầm này đã dẫn tới các thiệt hại của Nga trên chiến trường ở cả trên bộ, trên không lẫn trên biển. Các sai lầm này cũng khá giống với các sai lầm của các nhà lãnh đạo Xô Viết đã mắc phải trong những năm 1930s khi cải tổ Hồng quân và đem đội quân được cải tổ nửa vời đó tấn công Phần Lan năm 1940.
Điều may mắn cho quân Nga là, khác với lãnh đạo Liên Xô năm 1941, Moscow đã nhanh chóng nhận ra các sai lầm này và lập tức tìm cách thay đổi. Khác với cái giá là gần 6 triệu binh sỹ bị chết, hy sinh hay bị bắt trong năm 1941-1942 (thời gian mà Bộ Tư lệnh Tối cao của Hồng quân mắc các sai lầm nghiêm trọng và dần dần tìm cách khắc phục các sai lầm đó) thì thiệt hại của Nga lần này không lớn vì thời gian kể từ lúc phát hiện ra vấn đề tới khi Moscow bắt đầu khắc phục chỉ tính theo tháng hoặc thậm chí theo tuần.
Để hiểu được những sai lầm chết người này của Nga, trong phần này, chúng ta sẽ nhìn lại các cải cách quân sự của Liên Xô và Nga kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Sau đó, chúng ta sẽ xem các sai lầm đó thể hiện trên chiến trường Ukraine năm 2022 ra sao.
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, hai cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới lúc đó là Liên Xô và Mỹ. Do đặc thù của chiến trường mà mỗi nước này đã tham chiến trước đó, cơ cấu quân đội của hai nước này rất khác nhau. Vào năm 1945, Liên Xô sở hữu một lực lượng lục quân mạnh nhất với hơn 8 triệu người, hơn 15.000 xe tăng trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, và hàng chục ngàn khẩu pháo, cối. Tuy có gần 10 ngàn máy bay vào năm 1945 nhưng lực lượng không quân của Nga chủ yếu là các máy bay ném bom và tiêm kích có tầm ngắn và trung và được sử dụng chủ yếu cho mục đích chế áp quân địch trên chiến trường. Nói một cách khác, lực lượng ném bom của Liên Xô là một lực lượng pháo binh chiến trường từ trên không. Lực lượng ném bom tầm xa của Liên Xô đã bị không quân Đức tiêu diệt trong 3 tháng đầu của chiến tranh và chỉ tới sau năm 1945 mới bắt đầu được xây dựng lại.
Hải quân Liên Xô là lực lượng yếu kém nhất trong lực lượng vũ trang Liên Xô với hạm đội Baltic bị Đức dùng không quân đánh thiệt hại nặng khi rút từ Talin về Legingrad năm 1941 và trong suốt khoảng thời gian còn lại chỉ đóng tại quân cảng Kronstadt ở Leningrad với vai trò là lực lượng pháo binh siêu nặng để hỗ trợ cho cuộc phòng thủ của thành phố này. Ở Biển Đen, hạm đội Biển Đen của Liên Xô cũng chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tiếp vận cho hai cuộc phòng thủ Odessa và Sevastopol. Một trong những thất bại lớn nhất của hạm đội này là sau khi quân Liên Xô đã khóa được hơn 250 ngàn quân Đức (khi họ rút từ Bắc Cáp-ca-dơ về sau khi Stalingrad thất thủ) ở bán đảo Taman thì hạm đội này đã không thể phong tỏa được eo biển Kerch (eo biển nối giữa Crimea và bán đảo Taman, nơi sẽ được Nga xây dựng 1 cây cầu qua eo biển năm 2018 và bị tình báo Ukraine đánh bom năm 2022). Vì thất bại của Hạm đội Biển đen trong việc khóa eo biển Kerch nên quân Đức, dù chỉ có 4 chiếc sà-lan và tàu kéo, trong 2 tháng liền, đã chuyển được toàn bộ đội quân bị vây vượt eo biển về Crimea. Nếu hạm đội Biển đen bít được eo biển này thì một trận Stalingrad thứ hai đã xảy ra ở phía Nam.
Vào năm 1945, lục quân Mỹ kém xa lục quân Liên Xô về cả số lượng lẫn chất lượng vũ khí. Tuy nhiên hải quân và không quân của họ vượt trội so với hải và không quân Liên Xô một quãng đường dài tới mức tới tận bây giờ (gần 80 năm sau) hải quân và không quân Nga vẫn không đuổi kịp được.
Sự vượt trội của hải và không quân Mỹ không chỉ ở số lượng và chất lượng vũ khí, mà quan trọng hơn là cơ cấu của các trang thiết bị, vũ khí trong lực lượng, phân bổ nguồn lực và cách thức tổ chức của hai lực lượng này.
Về không quân, người Mỹ, kể từ thế chiến thứ hai tới nay, luôn có một cơ cấu trang bị, vũ khí phải nói gần như là hoàn hảo. Lực lượng chiến lược và tầm xa của họ có thể ném bom từ thông thường tới hạt nhân tới bất kỳ điểm nào trong lãnh thổ đối phương. Lực lượng không quân chiến thuật của họ có khả năng thiết lập air supremacy hoặc air superiority đối với đại đa số đối thủ mà không bị giới hạn bởi không gian địa lý. (air supremacy có nghĩa là sự thống trị tuyệt đối trên không – điều chỉ xảy ra khi tiêu diệt được hoàn toàn lực lượng phòng không - không quân của đối phương. Air superiority có nghĩa là sự khống chế trên không. Điều này có nghĩa là tuy phòng không – không quân của đối phương không bị tiêu diệt nhưng họ không có khả năng kiểm soát bầu trời và không quân Mỹ có thể dập tắt mọi cố gắng nghênh chiến của đối phương). Nói một cách khác là không quân Mỹ có khả năng, cùng trong một thời gian, vừa tấn công triệt phá các mục tiêu quân sự, công nghiệp, kinh tế, chính trị ở sâu trong nội địa đối phương vừa chế áp toàn bộ không gian trên chiến trường và tấn công từ trên không để hỗ trợ bộ binh.
Tương tự như vậy, hải quân của Mỹ thực sự thống trị mọi đại dương. Họ có thể nhanh chóng thiết lập quyền thống trị tuyệt đối trên biển (sea superamacy) hay khống chế trên biển (sea superiority). Sự khống chế này không chỉ đơn thuần trên mặt biển (với hạm đội các tàu nổi) mà bao gồm cả trong lòng biển (với tàu ngầm và các tàu và máy bay săn ngầm) và trên không trung trên mặt biển (với các cụm tàu sân bay).
Nói một cách ngắn gọn, với các căn cứ quân sự khắp mọi nơi trên thế giới, hải và không quân Mỹ có thể có thể khống chế vùng trời, vùng biển của đại đa quốc gia trên thế giới và từ trên không, từ ngoài biển có thể đánh gãy sống lưng nền quân sự và kinh tế của hầu hết các quốc gia khác trước khi triển khai lục quân cho các trận chiến trên bộ.
Liên Xô, trong suốt cả lịch sử tồn tại của mình, đã cố gắng đầu tư vào hải và không quân của mình nhưng họ chưa bao giờ có thể ngang hàng với các lực lượng không và hải quân Mỹ. Trong lịch sử, có hai thời điểm mà hải quân Liên Xô đối diện với hải quân Mỹ trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu là ở Cuba năm 1962 và một lần ở Địa Trung Hải năm trong cuộc chiến giữa Israel và các nước Arab năm 1973. Trong cả hai cuộc đối đầu này, như lời các sỹ quan cao cấp của hải quân Liên Xô sau này thừa nhận, dù họ có thể có nhiều tàu hơn quân Mỹ (như ở ngoài khơi Israel năm 1973 với 52 tàu so với 48 tàu của Mỹ) nhưng họ hoàn toàn không có sự bảo vệ của trên không (trong khi đó ở Cuba, không trung bị khống chế hoàn toàn bởi máy bay trên các hàng không mẫu hạm và các sân bay trên đất liền của Mỹ và ở Địa Trung Hải thì từ hàng không mẫu hạm và các căn cứ không quân tại Thổ Nhĩ Kỳ). Trong các cuộc đối đầu này, hải quân Liên Xô cũng không có lực lượng dự trữ vì họ ở quá xa hậu phương trong khi Liên Xô lúc đó không có nhiều căn cứ quân sự ngoài lãnh thổ (trong khi hạm đội Mỹ luôn có một lực lượng dự trữ ở các căn cứ gần đó tương đương với lực lượng trực chiến). Điều này có nghĩa, như các đô đốc Liên Xô sau này nhớ lại, kế hoạch của các hạm đội Liên Xô khi đối đầu với Mỹ là dồn mọi nỗ lực vào đòn tấn công đầu tiên, gây ra càng nhiều thiệt hại cho đối phương càng tốt. Sau đó, họ biết chắc là dù có tiêu diệt được phần lớn các lực lượng đang đối đầu họ thì cuối cùng họ sẽ bị các lực lượng dự bị của đối phương săn đuổi và tiêu diệt.
Tương tự như vậy, lực lượng không quân tầm xa của Liên Xô thua kém Mỹ cả về số lượng lẫn chất lượng và kinh nghiệm tổ chức, chiến đấu. Ở đây, tôi không nói về trình độ của các phi công trong các cuộc không chiến (dog fight) mà nói tới khả năng thực hiện chế áp hoàn toàn đối phương từ trên không của lực lượng không quân. Đến nay chúng ta đều biết chuyện các máy bay ném bom hạng nặng đầu tiên của Liên Xô (Tupolev-4) là bản sao hoàn toàn của chiếc máy bay B-29 của Mỹ buộc phải hạ cánh khẩn cấp ở Liên Xô sau khi ném bom Nhật trong thế chiến thứ 2 và việc lực lượng không quân chiến lược của Liên Xô bay vòng vòng trên bầu trời Moscow qua quảng trường Đỏ nhiều lần trong các cuộc diễu binh để các tùy viên quân sự của phương Tây tưởng lầm là họ có một lượng lớn máy bay ném bom chiến lược.
Các nỗ lực xây dựng hải và không quân của Liên Xô không phải không tạo ra được các vũ khí tốt (Liên Xô có nhiều mẫu máy bay chiến đấu có tính năng ngang và thậm chí vượt trội so với Mỹ), tuy nhiên về tổng thể (tính tới mọi yếu tố từ chất lượng tới số lượng và trình độ) không quân Liên Xô chưa bao giờ có thể ngang bằng với Mỹ chứ chưa nói tới việc đánh bại họ.
Thua trong cuộc chạy đua về không và hải quân, Liên Xô đầu tư vào 2 vũ khí chính là đầu đạn hạt nhân và tên lửa. Các quyết định này về mặt chiến lược là cực kỳ đúng về mặt chiến lược quân sự. Cho tới nay, với gần 40 năm thực hiện cắt giảm vũ khí hạt nhân, Nga vẫn là nước có số lượng đầu đạn hạt nhân lớn nhất thế giới và nếu như sử dụng chỉ một phần số đầu đạn này thì sự sống của loài người trên trái đất cũng sẽ không còn tồn tại. Tương tự với vũ khí hạt nhân, lực lượng tên lửa của Nga hiện nay là lực lượng tiên tiến và mạnh nhất trên thế giới cả về chủng loại, chất lượng và số lượng.
Việc phát triển được lực lượng tên lửa tiên tiến khiến cho Liên Xô và Nga sau này có thể cắt giảm quy mô của hải và không quân cả về số lượng lẫn chủng toại tàu và máy bay. Một ví dụ điển hình là Nga đã chuyển hướng từ việc đóng các hạm đội có thể hoạt động xa bờ lâu ngày như của Mỹ sang đóng các tàu nhỏ chạy ven bờ nhưng được trang bị các tên lửa hiện đại. Các tàu nhỏ với vũ khí tên lửa rất mạnh này, cộng với các tên lửa chống hạm trên bờ và trên máy bay, có đầy đủ khả năng đẩy các cụm tác chiến mạnh nhất của hải quân Mỹ ra xa các vùng biển gần bờ của Nga hoặc các khu vực có lợi ích cốt lõi của Nga. Tuy nhiên, lực lượng hải quân này lại không có hiệu quả trong việc khống chế bầu trời hay chế áp các vùng ven biển (nếu các vùng đó được trang bị phòng thủ tốt). Điều này sẽ thấy rõ trong cuộc chiến Ukraine.
Tương tự như hải quân, không quân Nga cắt giảm nhiều chủng loại máy bay dưới thời Liên Xô để tập trung vào các máy bay chiến đấu đa nhiệm của Sukhoi và hiện đại hóa các máy bay chiến lược Tupolev sản xuất từ thời Liên Xô. Về cơ bản, họ tập trung chế tạo ra các máy bay lớn hơn, có tầm bay xa và mang nhiều vũ khí hơn, với hệ thống tác chiến điện tử tối tân hơn. Điều này dẫn tới chủng loại máy bay ít đi và số lượng sẽ ít hơn (vì giá thành đắt). Ở đây chúng ta thấy rằng người Nga đang đi theo xu hướng của Mỹ là thay vì chế tạo với số lượng lớn các máy bay giá rẻ (như Liên Xô từng làm) thì tập trung vào chế tạo một số lượng nhỏ các máy bay tối tân. Tuy nhiên, với một ngân sách quân sự hàng năm chỉ bằng khoảng 8% ngân sách quốc phòng của Mỹ thì điều chắc chắn là không quân Nga thua xa không quân Mỹ về cả số lượng lẫn chất lượng (năm 2021, ngân sách quân sự của Mỹ là hơn 800 tỷ đô la còn ngân sách của Nga là 66 tỷ đô). Cuộc chiến Ukraine xảy ra vào thời điểm lực lượng không quân Nga về cơ bản vẫn là lực lượng không quân mà họ có từ 20 năm trước (với số lượng máy bay nhiều hơn, phi công có được đào tạo tốt hơn) với các tên lửa được chế tạo trong 8 năm qua. Các máy bay chiến đấu đa nhiệm thế hệ 5 Su-57 chỉ có số lượng đủ để tham gia trong các cuộc duyệt binh và việc tham chiến của nó ở Syria và Ukraine bị coi là bí mật. Các máy bom ném bom tàng hình vẫn dừng ở trên các đoạn quảng cáo với hình ảnh 3D. Các máy bay hiện đại nhất đang tham chiến của Nga là Su-35 và Su-34 cũng có số lượng rất ít khiến cho mỗi một chiếc rơi ở Ukraine sẽ ảnh hưởng ngay tới khả năng chiến đấu của không quân Nga trước NATO. Nói một cách khác, cũng như hải quân, không quân Nga không được chuẩn bị thực sự cho cuộc chiến tại Ukraine.
Vậy câu hỏi đặt ra là “vào thời điểm nổ ra chiến tranh, ngày 24/2/2022, tình trạng sẵn sàng chiến đấu của hải quân và không quân Nga ra sao; và họ đã tiến hành chiến tranh thế nào?”
Trước hết, chúng ta nói về hải quân Nga.
Chiến tranh nổ ra khi hải quân Nga vẫn đang dang dở trên lộ trình hiện đại hóa của mình. Các biện pháp cấm vận sau khi Nga chiếm Crimea năm 2014 đã khiến cho hải quân Nga không thể có được 4 chiếc tàu đổ bộ lớp Mistral của Pháp. Tuy được xếp loại là tàu đổ bộ hạng lớn nhưng Mistral cũng có thể được coi như là một tàu sân bay hạng trung. Tàu được người Pháp thiết kế để có thể chứa máy bay trực thăng. Tuy nhiên, người Nga cũng có thể biến nó thành một tàu sân bay nếu trang bị các chiến đấu cơ cánh cứng có khả năng cất và hạ cánh theo chiều thẳng đứng (giống như cách mà người Nhật đã làm với hai chiếc tàu sân bay đầu tiên mà họ đóng sau thế chiến thứ hai). Nếu như hạm đội Biển Đen của Nga sở hữu 2 chiếc tàu như Mistral làm hạt nhân cho lực lượng phong tỏa thì các diễn biến của cuộc chiến trên Biển Đen trong giai đoạn đầu đã rất khác.
Sau khi Pháp hủy hợp đồng cung cấp 4 chiếc Mistral này, người Nga buộc phải quay về với việc cải tạo chiếc tuần dương hạm hạng nặng có thể mang máy bay duy nhất của mình, tàu Kuznetsov. Cuộc chiến ở Syria cho thấy chiếc tuần dương hạm mang máy bay này không tạo ra các kết quả mong đợi và thường xuyên bị hỏng hóc và buộc phải đưa về xưởng sửa chữa. Khi cuộc chiến nổ ra và cho tới tận bây giờ, con tàu này vẫn đang trong quá trình sửa chữa, nâng cấp.
Trong 8 năm trước cuộc chiến và sau khi thương vụ mua 4 tàu Mistral bị đổ vỡ, các khoản đầu tư cho hải quân Nga chủ yếu đổ vào lực lượng tàu ngầm chiến lược mang tên lửa hạt nhân, các tàu chiến mặt nước loại nhỏ nhưng được trang bị tên lửa mạnh, và các loại tên lửa đối hạm, đối đất và đối không cho hải quân. Với chiến lược đầu tư như vậy thì hạm đội Biển Đen nhận được số đầu tư ít hơn hẳn so với hạm đội Baltic (nơi thường xuyên phải đối đầu với hải quân của NATO và thực hiện các tham vọng của Nga đối với vùng Bắc Cực). Tuy nhiên, điều này không thay đổi tương quan lực lượng trên Biển Đen.
Sau khi Nga chiếm Crimea năm 2014, khoảng 75% các trang thiết bị của hải quân Ukraine bị mất về tay Nga. Trong 8 năm tiếp theo, Ukraine không đủ tiền để xây dựng một lực lượng hải quân mới. Do đó, họ chú trọng vào việc phát triển các tàu loại nhỏ và rất nhỏ cùng với tên lửa chống hạm để bảo vệ bờ biển của mình khỏi hạm đội Biển Đen. Người Ukraine đã tính toán đúng rằng hải quân của họ sẽ không thể đối đầu với hải quân Nga nên đã dồn lực vào phát triển các vũ khí phòng thủ chống lại một cuộc phong tỏa đường biển.
Khi chiến tranh nổ ra hạm đội Biển Đen của Nga đã nhanh chóng phong tỏa các cảng biển của Ukraine. Họ đánh chìm tất cả các tàu tuần tra ven bờ của Ukraine và người Ukraine tự đánh chìm khinh hạm duy nhất của mình tại Mykolaiev trên sông Dniepper khi quân Nga tiến tới gần thành phố này. Hạm đội Biển Đen của Nga cũng phát động nhiều cuộc tấn công bằng tên lửa hành trình vào các vị trí sâu trong nội địa của Ukraine và chiếm đảo Rắn ở cực Nam của Ukraine chặn mọi tuyến đường biển của Ukraine với Thổ Nhĩ Kỳ (và qua đó với thế giới bên ngoài). Việc áp sát bờ biển của Nga đã khiến Ukraine tự gài mìn phong tỏa các cảng của mình và các bờ biển quanh Odessa mà quân Nga có khả năng đổ bộ.
Sau những thắng lợi ban đầu này, rất nhanh chóng, các vấn đề của cuộc cải tổ hải quân dang dở của Nga đã bộc lộ. Từ khi mở màn của cuộc chiến tới khi rút về Sevastopol sau khi soái hạm Moskva bị đánh chìm, hạm đội Biển Đen đã không thể chế áp được các lực lượng phòng vệ bờ biển của Ukraine. Người Ukraine đã tổ chức một tấn công có hiệu quả cao nhất trong lịch sử hải quân trong 50 năm gần đây. Chỉ với vài chiếc UAV và việc sử dụng khôn khéo các hoạt động nghi binh, lợi dụng tình hình thời tiết (có giông bão), họ đã dùng 2 tên lửa chống hạm đánh bị thương nặng soái hạm Moskva của hạm đội Biển Đen và sau đó dẫn tới việc tàu này bị chìm khi đang kéo về Sevastopol. Điều đáng lưu ý rằng tàu Moskva được coi là tàu có trang bị hỏa lực mạnh nhất trong các tàu chiến nổi hiện nay dù xét về tuổi đời nó là một trong các con tàu già. Tàu Moskva vừa đóng vai trò là soái hạm vừa cung cấp lưới lửa phòng không bảo vệ các con tàu khác trong đội tàu đi cùng. Việc tàu Moskva chìm đã dẫn tới việc toàn bộ hạm đội Biển Đen phải rút về Sevastopol để tìm cách thức phong tỏa mới. Việc rút lui của hạm đội Biển Đen đã dẫn tới việc người Nga buộc phải bỏ đảo Rắn.
Tuy nhiên sự việc không dừng lại ở đó. Tuy không còn hạm đội, nhưng người Ukraine lại một lần nữa thành công khi đẩy hạm đội Biển Đen ra khỏi căn cứ chính của mình tại Sevastopol. Bằng cách sử dụng các UAV tự sát trên biển, người Ukraine đã đánh bị thương một tàu quét mìn của Nga ngay trong cảng Sevastopol. Điều này khiến cho các tàu chiến chủ chốt của Nga buộc phải rút về cảng Novorossysk xa hơn 200 km nữa về phía Đông để nghiên cứu cách đối phó. Đây có thể nói là một thắng lợi chưa có tiền lệ khi một quốc gia không còn lực lượng hải quân mà lại có thể buộc hải quân của đối phương rời bỏ căn cứ chính của mình.
Về tổ chức đổ bộ, hạm đội Biển Đen cũng chỉ tổ chức được một cuộc đổ bộ từ ngoài biển Azov lên bờ ở gần Berdyansk. Cùng với cánh quân từ Crimea tiến lên, cuộc đổ bộ này đã giúp cho người Nga chiếm được cảng Berdyansk gần như còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, sau khi người Ukraine sử dụng tên lửa đạn đạo Tochka, một loại được người Nga coi là lạc hậu vì sản xuất từ những năm 1970s, đánh trúng các tàu vận tải và đổ bộ của hải quân Nga đậu trong cảng thì các hoạt động tiếp vận qua cảng này cũng bị dừng lại cho tới khi người Nga thiết lập được một mạng lưới phòng không nhiều tầng lớp sau này.
Như vậy, ở trên biển, hải quân Nga, cụ thể là hạm đội Biển Đen đã gần như không đạt được các mục tiêu chính đặt ra cho nó. Cho dù họ có tiêu diệt được lực lượng hải quân Ukraine thì điều này cũng không có ý nghĩa lớn vì về thực chất, hải quân Ukraine đã không còn tồn tại như một lực lượng chiến đấu thực sự sau năm 2014. Khi đối đầu với các lực lượng phòng vệ bờ biển của Ukraine, hạm đội Biển Đen đã không thể chế áp được các lực lượng này mà dần dần trở thành gánh nặng cho chính người Nga khi nó không thể tự bảo vệ mình một cách hiệu quả đối với các cuộc tấn công đường không và đường biển bởi tên lửa và các thiết bị UAV của Ukraine.
Sau khi không đạt được mục tiêu khống chế, phong tỏa vùng biển, vùng trời và vùng duyên hải phía Nam của Ukraine, hải quân Nga đã thu hẹp vai trò của mình trong 2 nhiệm vụ chính: (i) sử dụng tên lửa tấn công cơ sở hạ tầng của Ukraine từ xa và (ii) sử dụng lực lượng lính thủy đánh bộ trên đất liền như các đơn vị bộ binh thông thường.
Sự thất bại của hạm đội Biển Đen thực ra không có gì là bất ngờ. Đơn giản là ngay cả trong 8 năm chuẩn bị cho chiến tranh, các đầu tư của hải quân Nga không nhắm tới việc phục vụ cho một cuộc chiến với Ukraine. Chúng ta thấy rõ là các khoản đầu tư lớn nhất của Nga cho hải quân là nhằm vào việc chế tạo các tên lửa đạn đạo có khả năng mang nhiều đầu đạn hạt nhân và các tàu ngầm mang chúng để đối phó với Mỹ. Trong bối cảnh các căn cứ quân sự và hệ thống chống tên lửa của NATO ngày càng áp sát biên giới trên bộ của Nga thì đây là giải pháp tối ưu vì các tàu ngầm hạt nhân của Nga có thể bí mật hoạt động dài ngày dưới lớp băng ở Biển Bắc và trồi lên bắn các tên lửa ở các địa điểm bất ngờ (không như các silo tên lửa đạn đạo bị buộc phải công khai địa điểm và bị kiểm soát liên tục theo các hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân). Đường bay của các tên lửa này – qua Bắc Cực, Canada rồi tới Mỹ - cũng ngắn và ít bị các đơn vị phòng thủ tên lửa hơn. Ngoài ra, việc khí hậu ấm lên đã mở ra hai cơ hội lớn cho nước Nga là: (i) khai thác tuyến đường vận tải biển ở phương Bắc (vốn thường xuyên bị đóng băng trước kia) và (ii) tìm kiếm, khai thác dầu khí ở vùng thềm lục địa gần Bắc cực (nơi được cho là có 1/3 trữ lượng dầu và khí chưa khai thác trên trái đất). Với một chương trình cải tổ đầy tham vọng nhưng lại có nguồn lực hạn chế, tình trạng về trang bị và sẵn sàng chiến đấu của hải quân Nga rất bất cân xứng giữa các hạm đội. Ngay sau khi soái hạm Moskva bị đánh chìm, đã có một danh sách các trang thiết bị không hoạt động trên tàu này được tiết lộ bởi các blogger quân sự của Nga. Nếu nhìn vào danh sách này (và nếu danh sách này là thực) thì thực ra tàu Moskva không thể được coi là đang trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu khi gần như toàn bộ các hệ thống vũ khí phòng không của nó hoặc là không hoạt động hoặc là đang được bảo trì. Điều này cho thấy rõ là chiến tranh đã xảy ra khi mà hạm đội Biển Đen chưa sẵn sàng cho cuộc chiến. Đây là tình tiết mà tôi muốn các bạn lưu ý và sẽ được nhắc lại trong phần phân tích sau.
Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là lực lượng hải quân Nga có những “điểm sáng nào” không?
Mặc dù hải quân Nga có những thất bại như vừa nêu nhưng người Nga vẫn đạt được hầu hết các mục tiêu mà họ đặt ra đối với mặt trận trên biển. Mặc dù hạm đội Biển Đen rút về Novorossysk nhưng thực tế là Ukraine không thể sử dụng Biển Đen cho mình ngoại trừ hoạt động vận chuyển lúa mì được Nga chấp thuận theo thỏa thuận với Liên Hợp Quốc. Thông qua các hoạt động ngoại giao, người Nga đã khiến Thổ Nhĩ Kỳ đóng cửa eo biển Bosphorus và Dardanelles với tàu chiến và các tàu vận tải quân sự của các bên tham chiến. Toàn bộ các vũ khí mà phương Tây vận chuyển cho Ukraine đều đi bằng đường bộ hoặc đường không. Các tàu hàng của Ukraine cũng không thể hoạt động nếu như đó không phải là trong khuôn khổ của thỏa thuận về xuất khẩu lúa mì. Bản thân hải quân Ukraine khi phát động cuộc tấn công bằng UAV trên biển vào Sevastopol cũng phải núp bóng các tàu hàng trong chương trình xuất khẩu lúa mì chứ tàu của họ không thể hoạt động trên biển.
Người Nga cũng rất thực dụng trong cuộc chiến, khi thấy việc giữ một địa điểm, hoặc việc hiện diện hải quân của họ tại một khu vực không đạt được mục tiêu đề ra và có thể gây thiệt hại thì họ sẵn sàng rút lui, bất chấp sự cười nhạo của phương Tây. Chúng ta có thể thấy sự khác nhau rõ rệt giữa việc người Nga nhanh chóng rút trung đội lính thủy đánh bộ giữ đảo Rắn hay toàn bộ hạm đội Biển Đen sau khi tàu Moskva bị đánh đắm (mà họ chưa có biện pháp chống trả cách đánh mới của Ukraine) với cách Kiev ném hết đơn vị này tới đơn vị khác vào thành phố Bakhmut bị bao vây ¾ trong suốt mấy tháng gần đây.
Người Nga cũng rất thực dụng khi sẵn sàng copy, cải tiến các thiết bị quân sự của Ukraine mà họ bắt được. Ví dụ, vào cuối năm 2022, họ đã bắt được 2 chiếc UAV tấn công đường biển của Ukraine dạt vào bờ biển Sevastopol. Đó là loại khí tài mà người Nga chưa đầu tư nghiên cứu và sản xuất trước đó. Thế nhưng chỉ vài tháng sau, vào tháng 2/2023, người Nga đã sử dụng một thiết bị tương tự như thiết bị bắt được để đánh sập cầu Zatoka, một cây cầu quan trọng trên tuyến đường huyết mạch tiếp tế cho Ukraine từ Moldova. Với năng lực sản xuất hàng loạt của nền công nghiệp quốc phòng Nga, có lẽ trong thời gian tới người Ukraine sẽ phải tăng cường lực lượng để bảo vệ các cây cầu chiến lược của mình khỏi các cuộc tấn công tương tự.
Một mặt khác, mỗi khi người Ukraine triển khai một phương thức đánh mới có hiệu quả thì người Nga sẽ lập tức nghiên cứu, rút kinh nghiệm và tìm ra biện pháp khắc chế. Sau cuộc tấn công của UAV biển vào Sevastopol hồi tháng 10 năm ngoái, hạm đội Biển Đen đã rút về Novorossysk. Thế nhưng, vào tháng 2/2023, không ảnh của Mỹ cho thấy toàn bộ hạm đội này đã rời khỏi Novorossysk và đi về phía Tây. Điều này khiến cho nhiều chuyên gia phương Tây cho rằng Nga sắp bắt đầu phát động cuộc tổng tấn công (mà nhiều người dự đoán mấy tháng nay). Tuy nhiên, từ đó tới nay đã hơn 1 tháng và người Nga đã phát động nhiều đợt tấn công tên lửa lớn (trong đó có nhiều tên lửa do hạm đội Biển Đen bắn) nhưng người Ukraine không có được bất cứ cuộc thành công nhỏ nào đối với hạm đội này. Đêm rạng ngày 23/3/2023, người Ukraine đã phát động một cuộc tấn công bằng UAV trên không và trên biển vào hạm đội Biển Đen tại Sevastopol. Các tàu UAV trên biển của Ukraine là loại mới, được Mỹ trang bị. Tuy nhiên, tất cả các UAV này đều bị phía Nga bắn hạ. Điều đó có thể cho thấy rằng việc tiến về phía Tây của hạm đội Biển Đen hồi tháng 2/2023 không phải là một hành động bất chấp rủi ro để tham gia vào một cuộc tổng tấn công mà đơn thuần là người Nga đã tìm ra các biện pháp chế khắc các cuộc tấn công của Ukraine nên hạm đội đó quay lại vị trí thường trực của mình trước đó.
Về không quân Nga
Chúng ta thấy rằng ở giai đoạn mở màn của cuộc chiến, không quân Nga và lực lượng tên lửa là những lực lượng đi đầu trong việc tấn công vào các cơ sở hạ tầng trọng yếu nhất của lực lượng phòng không và không quân của Ukraine. Trong một tháng đầu tiên, hiệu quả của các cuộc tấn công này được thấy rõ là lực lượng không quân của Ukraine hầu như không có các cuộc oanh tạc đáng kể nào vào các đơn vị tăng, thiết giáp thọc sâu của Nga. Hệ thống phòng không của Ukraine giai đoạn đầu tiên cũng bị tê liệt khiến cho trong hai tuần đầu các máy bay ném bom của Nga có thể bay thấp trên các thành phố.
Tuy nhiên, trong các tuần tiếp theo thì tình hình có thay đổi. Không quân của Ukraine tuy vẫn không có vai trò gì trong các cuộc tấn công quân Nga từ trên không nhưng các lực lượng phòng không, đặc biệt là lực lượng tên lửa vác vai (MANPAD) bắt đầu gây các thiệt hại cho các máy bay trực thăng và máy bay ném bom bay thấp.
Sau 2 tháng chiến tranh, mặc dù phía Nga tuyên bố rằng họ đã khống chế được hoàn toàn bầu trời Ukraine nhưng những diến biến trong các tháng tiếp cho thấy điều đó không đúng. Chúng ta có thể thấy rằng người Nga chỉ có được air superiority (sự khống chế trên không) chứ không có được air supremacy (sự thống trị tuyệt đối trên không). Không quân Ukraine, mặc dù đã bị thiệt hại nặng và không còn là một lực lượng chiến đấu đáng kể, vẫn tiếp tục xuất kích với số máy bay ít ỏi của mình. Trong tuyệt đại đa số các trận không chiến, phần thua thuộc về phía Ukraine với các máy bay trang bị yếu hơn và phi công ít kinh nghiệm hơn đối phương. Tuy nhiên, việc không quân Ukraine tiếp tục xuất kích bất chấp thiệt hại cho thấy tinh thần bất khuất của lực lượng này. Tất nhiên, chúng ta không bàn ở đây câu chuyện tuyên truyền về “bóng ma Kiev”, một phi công Ukraine tài giỏi bắn rơi nhiều máy bay Nga trên bầu trời Kiev do phía Ukraine dựng lên. Song, một điều đáng được ghi nhận là, bất cứ khi nào có cơ hội, bất cứ khi nào nhận được một vài chiếc máy bay viện trợ thay thế cho các máy bay đã bị mất thì không quân Ukraine lại cất cánh đấu với người Nga. Điều này khiến cho lực lượng không quân Ukraine phải trả một giá đắt là hầu hết phi công loại một và hai của họ đều đã bị người Nga loại khỏi vòng chiến đấu. Trong thời gian tới, Ukraine sẽ phải trông đợi vào việc hình thành một thế hệ phi công mới, trẻ hơn và được phương Tây đào tạo để chống lại người Nga trên bầu trời. Điều này sẽ mất nhiều năm và nhiều máu.
Tuy nhiên, sự chống trả kiên cường, bất chấp thiệt hại nặng nề của cả phòng không lẫn không quân Ukraine đã khiến cho người Nga nhanh chóng phải thay đổi lại chiến thuật của mình. Chỉ sau 3 tháng chiến tranh, các phi công Nga đã rút khỏi các nhiệm vụ oanh tạc các đường tiếp vận của quân đội Ukraine. Trên chiến trường, các máy bay ném bom của Nga trở nên rất thận trọng trong các cuộc oanh tạc. Các máy bay hiện đại khác của Nga vẫn tham gia tấn công vào hậu phương của Ukraine nhưng chủ yếu bằng cách bắn tên lửa hành trình từ ngoài tầm với của lực lượng phòng không Ukraine.
Ở đây, chúng ta một lẫn nữa lại thấy rõ tính thích nghi nhanh chóng của quân Nga đối với các hoàn cảnh phát sinh trên chiến trường và sự thực dụng của họ trong các chiến thuật. Khi thấy rõ hiệu quả của các loại tên lửa trong tấn công từ xa các mục tiêu chiến lược của Ukraine, người Nga tận dụng tối đa lợi thế của thứ vũ khí mà họ đã bỏ nhiều năm đầu tư nghiên cứu.
Trước hết, như đã nói ở trên, việc hiện đại hóa lực lượng không quân của Nga là nhằm đối đầu với lực lượng không quân của NATO chứ không phải để tham chiến vào một cuộc chiến với Ukraine. Do đó, dù thiệt hại không lớn nhưng nếu không quân Nga tiếp tục tham chiến như những ngày đầu thì sớm hay muộn, các thiệt hại do phía Ukraine gây ra sẽ ảnh hưởng tới khả năng chiến đấu của không quân Nga với không quân NATO. Do đó, người Nga đã chọn một chiến thuật rất hiệu quả cho tới nay.
Chiến thuật mới của không quân Nga bao gồm các yếu tố sau:
(i) tấn công tiêu diệt mọi lực lượng của không quân Ukraine mọi nơi, mọi lúc, khi họ xuất hiện.
(ii) phá hủy toàn bộ các cơ sở hạ tầng quân sự mà lực lượng không quân Ukraine cần có để đảm bảo cho tình trạng sẵn sàng chiến đấu của không quân;
(iii) tiêu hao càng nhiều càng tốt lực lượng phòng không của Ukraine cả về khí tài chiến đấu lẫn đạn dược;
(iv) phá hủy các cơ sở hạ tầng dân sự mà người Ukraine có thể sử dụng cho mục đích quân sự.
Việc thực hiện các chiến thuật đó như sau.
Trước hết, toàn bộ các cơ sở hạ tầng quân sự của không quân Ukraine (các sân bay, kho nhiên liệu, kho vũ khí, các nhà máy sản xuất, bảo dưỡng máy bay) đều đã bị người Nga tấn công và phá hủy bằng vũ khí chính xác ngay từ đầu cuộc chiến. Điều này buộc lực lượng không quân Ukraine phải phân tán toàn bộ số máy bay còn lại về các sân bay ở cực Tây của đất nước và ở các sân bay nhỏ, bí mật.
Tiếp đó, các hệ thống trinh sát của Nga theo dõi chặt bầu trời để báo cho các tiêm kích Nga chặn đánh các cuộc xuất kích của máy bay Ukraine. Nếu việc chặn đánh không kịp thì họ sẽ theo dõi đường về của các máy bay này (người Ukraine đang sử dụng lối đánh du kích trên không giống như không quân của Việt Nam thời chống Mỹ nên không phải lúc nào người Nga cũng có thể có các trận không chiến với họ) để xác định các căn cứ xuất phát. Kể cả việc bị mất dấu các máy bay này thì họ cũng sẽ dùng các biện pháp phân tích từ không ảnh tới tình báo để tính toán được các khu vực cất giữ máy bay và tấn công chúng ở ngay nơi ẩn nấp.
Không chỉ nhằm vào việc tiêu hao các phi công Ukraine trên bầu trời, người Nga cũng nhằm vào lực lượng trên mặt đất của lực lượng không quân. Trong không chiến hiện đại, vai trò của những người dưới đất cũng quan trọng không kém vai trò của các phi công trên trời. Những người đó là những sỹ quan phục vụ trong các lực lượng rada, chỉ huy, điều độ bay, trinh sát khí tượng. Người Nga cũng dồn lực vào việc tấn công tiêu diệt các lực lượng hỗ trợ dưới đất này. Điển hình nhất là vụ tấn công vào tòa nhà câu lạc bộ sỹ quan tại thành phố Vinnytsia, gần biên giới với Moldova ngày 14/7/2022. Người Nga được cho rằng đã bắn 5 tên lửa hành trình Kalibr từ một tàu ngầm ở ngoài khơi Biển Đen. Dù phía Ukraine nói rằng có 2 tên lửa bị bắn hạ nhưng các tên lửa còn lại đã đánh trúng mục tiêu (xem hình). Mặc dù phía Ukraine nói rằng người Nga bắn vào các cơ sở dân sự nhưng thực tế cho thấy tên lửa Nga đã bắn rất chính xác vào phần tòa nhà nơi có cuộc họp của các sỹ quan cao cấp của không quân Ukraine với đại diện phía NATO bàn về viện trợ cho không quân Ukraine. Mặc dù phía Ukraine tuyên bố chỉ có các nạn nhân là dân thường nhưng trong các video đầu tiên bị rò rỉ lên mạng, từ phía phần tòa nhà câu lạc bộ sỹ quan bị bắn sập đã đưa ra rất nhiều người chết và bị thương mặc quân phục.
Song song với việc tấn công vào lực lượng không quân Ukraine, người Nga cũng tấn công vào lực lượng phòng không của nước này. Người Nga sử dụng các máy bay chiến đấu mang các tên lửa hành trình, xuất phát từ nhiều sân bay, với các đường bay khác nhau để làm rối loạn việc theo dõi của hệ thống phòng không Ukraine và bắn tên lửa hành trình ở khoảng cách ngoài tầm với của tên lửa phòng không Ukraine. Về cơ bản, việc theo dõi, tính toán đường đạn của tên lửa hành trình do máy bay bắn ra từ trên không khó hơn rất nhiều lần so với việc theo dõi một tên lửa hành trình bắn lên từ mặt đất. Điều này lại càng trở nên khó khăn hơn cho phía Ukraine khi Nga sử dụng nhiều loại tên lửa, với nhiều hành trình khác nhau, được phóng từ máy bay, tàu ngầm, tàu chiến, từ các trạm phóng di động trên mặt đất kết hợp với các tên lửa giả và các UAV giá rẻ được sản xuất theo công nghệ Iran.
Việc sử dụng các UAV của Iran cũng là nỗ lực đầy thực dụng của người Nga trong các chiến dịch tấn công đường không đối với Ukraine. Các UAV này có sức mạnh phá hoại đủ lớn để khiến cho lực lượng phòng không của Ukraine không thể bỏ qua. Tuy nhiên nó lại khó bắn hạ bởi các hệ thống phòng không rẻ tiền như pháo cao xạ hay súng máy phòng không. Giá thành của các UAV này lại rẻ hơn nhiều lần các tên lửa phòng không được bắn lên để hạ chúng (và điều này khiến cho công cuộc phòng không trở nên đắt đỏ với một nền kinh tế đã suy sụp như Ukraine). Và điều nguy hiểm hơn nữa là các cuộc tấn công UAV này vừa là các cuộc tấn công thực sự vào các mục tiêu chiến lược lại vừa là các cuộc khiêu khích khiến cho lực lượng tên lửa phòng không của Ukraine lộ vị trí (và bị lực lượng không quân Nga săn đuổi ngay sau đó). Một khía cạnh khác của việc sử dụng các UAV của Iran là kinh tế. Sau khi các mục tiêu quân sự và công nghiệp quốc phòng chủ chốt đã bị đánh phá (hoặc không còn ý nghĩa vì người Ukraine đã sơ tán, phân nhỏ các cơ sở này) thì việc sử dụng tên lửa có độ chính xác cao đánh vào các mục tiêu nhỏ sẽ không hiệu quả về kinh tế cho phía Nga. Do đó, việc người Nga sử dụng các UAV rẻ tiền của Iran sẽ giúp cho họ duy trì được việc đánh phá hậu phương của Ukraine nhưng vẫn để giành được các tên lửa đắt tiền của mình cho các mục tiêu đắt giá hơn.
Ở trên các vùng gần tiền tuyến, người Nga cũng ráo riết sử dụng các UAV cảm tử để săn lùng các hệ thống phòng không S-300 của Ukraine cũng như các hệ thống phòng không được phương Tây viện trợ sau này.
Trong các chiến cuộc ở Donbass trong 6 tháng gần đây, các máy bay Su-24, Su-25 bay ném bom các vị trí của Ukraine chủ yếu là các máy bay của lực lượng Wagner. Đây cũng là một cách thích nghi của không quân Nga. Trong khi họ rút các không quân chính quy của mình về thực hiện các nhiệm vụ săn máy bay Ukraine và bắn tên lửa hành trình thì họ để cho Wagner tuyển dụng các phi công chiến đấu đã về hưu hoặc chuyển ngành vào các nhiệm vụ không kích ở mặt trận. Điều này giúp cho Nga vẫn bảo toàn được lực lượng không quân chính quy nhưng vẫn duy trì được áp lực từ trên không đối với quân Ukraine thông qua việc sử dụng một lượng lớn các phi công chiến đấu mà Liên Xô và Nga trước đây đã đào tạo.
Cách đây vài ngày, người Nga bắt đầu sử dụng “bom lượn” với số lượng lớn để tấn công các mục tiêu của Ukraine. Nói một cách ngắn gọn thì “bom lượn” là một quả bom cỡ lớn thông thường được gắn một bộ cánh có điều khiển để có thể tự bay tới mục tiêu theo điều khiển chứ không phải rơi tự do. Việc gắn các “bộ cánh” lên các bom thông thường là một giải pháp biến các bom thường thành một loại bom thông minh một cách rẻ tiền. Việc sử dụng bom lượng cũng làm giảm thiểu thiệt hại cho lực lượng không quân vì các máy bay ném bom này có thể thả bom từ khoảng cách 50-70 km và như thế sẽ giúp cho máy bay tránh khỏi các tên lửa phòng không tầm trung và ngắn. Vào hồi đầu năm 2022, người Nga đã sử dụng loại bom này trên chiến trường. Tuy nhiên sau đó loại bom này không được sử dụng lại cho tới tuần vừa qua. Điều này có thể thấy rằng người Nga đã dùng thời gian qua để chỉnh sửa các sai sót trong thiết kế trước đó của họ. Người Mỹ cũng cung cấp các “bộ cánh” tương tự cho không quân Ukraine. Với các bộ cánh này, các máy bay của Ukraine có thể tấn công các mục tiêu của Nga từ xa mà vẫn có thể tránh được các cuộc không chiến với máy bay Nga. Và nếu Nga muốn ngăn chặn các máy bay ném bom lượn này thì họ hoặc là phải cho máy bay tiêm kích tiến vào đất Ukraine hoặc là bố trí các hệ thống tên lửa S-400 ra sát biên giới hoặc vào vùng Donbass – và như vậy có thể biến chúng thành mục tiêu cho các UAV cảm tử của Ukraine.
Nếu nhìn nhận về hiệu quả của các hoạt động chiến đấu của không quân – tên lửa Nga một cách tổng thể thì chúng ta thấy rằng họ đã thành công và đạt được hầu hết các mục tiêu của mình.
Trước hết, lực lượng không quân Ukraine từ đầu cuộc chiến tới nay không có bất kỳ tác động nào tới diễn biến của chiến sự trên mặt đất. Đôi khi chúng ta nghe thấy việc một vài máy bay chiến đấu của Ukraine bị bắn rơi thì sự ngạc nhiên đối với mọi người là không quân Ukraine vẫn còn máy bay để cất cánh.
Thứ hai, toàn bộ nền công nghiệp quốc phòng của Ukraine rõ ràng đã bị xóa sổ. Không chỉ là các nhà máy sản xuất xe tăng, máy bay, pháo bị phá hủy mà hiện nay, ngay cả tới các loại đạn pháo và đạn thông thường thì người Ukraine cũng phải nhập hoặc tính đến việc nhờ phương Tây xây dựng các nhà máy của Ukraine trên lãnh thổ các nước thành viên NATO để sản xuất nhằm tránh bị Nga oanh tạc.
Về mặt chiến lược, trong cuộc chiến trên không, Ukraine và phương Tây rơi vào bế tắc và không có giải pháp nào để chiến thắng người Nga nếu vẫn tiếp tục tình trạng hiện nay.
Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta cần nhìn lại lịch sử các cuộc chiến trên không trước đây.
Chiến tranh trên không xảy ra lần đầu tiên trong Thế chiến Thứ Nhất. Trong cuộc thế chiến này, do các hạn chế về công nghệ hàng không nên các cuộc không chiến và oanh tạc bằng máy bay chỉ diễn ra trong khoảng cách 20 km tính từ chiến tuyến (các cuộc ném bom sâu trong nội địa của lực lượng khinh khí cầu Đức không được tính ở đây vì các nỗ lực này nhanh chóng bị người Đức bỏ qua sau khi Đồng Minh phát triển hệ thống phòng không). Về cơ bản, cuộc chiến trên không của Thế chiến thứ Nhất là cuộc chiến tiêu hao; trong đó các bên cố gắng càng bắn hạ nhiều máy bay đối phương càng tốt. Không quân ở thời kỳ này không tạo ra bất kỳ đột phá nào cho lục quân trên mặt đất trong bất cứ trận đánh nào.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát triển của công nghệ hàng không đã mang lại hai vai trò tối quan trọng cho không quân và lần đầu tiên không quân đóng vai trò quan trọng trong diễn biến của cuộc chiến. Vai trò thứ nhất là vai trò đột phá phòng tuyến địch và gây rối loạn hậu phương địch của không quân. Ví dụ điển hình nhất của vai trò này là vai trò của Luftwaffe (không quân Đức Quốc xã) trong thời kỳ đầu của cuộc chiến và của không quân Liên Xô trong giai đoạn sau. Thực tế là cứ khi nào Luftwaffe hay không quân Liên Xô khống chế được bầu trời thì lục quân của Đức hay Liên Xô sẽ chiến thắng trên mặt đất. Trong tấn công, lực lượng không quân đóng vai trò quan trọng khi giúp bộ binh đột phá phòng tuyến và phá hoại, làm tê liệt các hoạt động hậu cần, chuyển quân ở hậu phương. Trong phòng ngự, không quân có thể ngăn chặn các mũi tấn công của xe tăng và thiết giáp bằng cách phá hoại các cầu, các bến vượt sông, đường xá hoặc trực tiếp đánh thiệt hại lực lượng này.
Vai trò thứ hai (và quan trọng hơn) là không quân có thể triệt phá, hoặc gây rối loạn cho nền công nghiệp quốc phòng của đối phương khiến cho các nỗ lực chiến tranh bị ảnh hưởng. Điều này thấy rõ qua chiến dịch ném bom chiến lược của Mỹ và Anh lên các thành phố và nhà máy quốc phòng Đức. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng người Anh và Mỹ đã mất gần 160 ngàn người của lực lượng không quân (phi công, hoa tiêu, xạ thủ trên máy bay…) và hàng ngàn máy bay khi ném bom các cơ sở hạ tầng Đức song lượng vũ khí và đạn dược của Đức vẫn tiếp tục tăng liên tục qua các năm và đạt đỉnh cao vào năm 1944, năm mà các cuộc ném bom chiến lược được tiến hành mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, các thực tế đó không có nghĩa là các chiến dịch ném bom chiến lược của Đồng Minh thất bại. Dù người Đức, nhờ các nỗ lực của Bộ trưởng Vũ khí Albert Speer đã liên tục tăng sản lượng vũ khí và đạn được bất chấp bị ném bom nhưng việc hệ thống giao thông, đường sắt, đường bộ bị phá hoại khiến cho các vũ khí, đạn dược này không được chuyển ra chiến trường đầy đủ. Sản lượng xe tăng và thiết giáp của Đức liên tục tăng nhưng sản lượng xăng dầu cho chúng lại tụt dốc vì các cơ sở lọc dầu bị đánh phá. Điều đó dẫn tới các sư đoàn tăng thiết giáp thường xuyên hết nhiên liệu và đạn dược khi chiến dịch đang diễn ra nửa chừng (mà ví dụ điển hình nhất là cuộc phản công lớn cuối cùng của quân Đức ở phía Tây tại khu vực Ardennes). Ngoài ra, cùng với việc đưa vào trang bị máy bay P-51 Mustang (loại máy bay tiêm kích duy nhất có thể hộ tống máy bay ném bom ở sâu trong nội địa Đức rồi bay về) đã khiến cho các lực lượng tiêm kích của Đức buộc phải đối đầu với tiêm kích Mỹ và dẫn tới bị tiêu diệt. Trong giai đoạn 1944-1945, không quân Liên Xô đã làm chủ bầu trời mặt trận phía Đông là vì tất cả những đơn vị tiêm kích giỏi nhất của Đức đã bị điều về phía Tây để chống các cuộc ném bom chiến lược của Anh và Mỹ và bị tiêu hao tới không còn sức chiến đấu ở phía Tây.
Vai trò thứ ba là quyết định sự thắng thua của các trận hải chiến. Nói một cách ngắn gọn là trong thế chiến thứ hai, hầu hết các trận hải chiến quan trọng nhất đều được quyết định bởi không quân. Khống chế trên không quyết định sự an toàn của các tuyến vận chuyển (khỏi sự tấn công của không quân và tàu ngầm của đối phương). Sau thế chiến thứ hai, các thiết giáp hạm khổng lồ đều bị các cường quốc hải quân từ bỏ.
Trong thế chiến thứ hai, không quân Mỹ và Liên Xô đều đạt được tất cả các mục tiêu của mình nhưng cái giá phải trả là hàng trăm ngàn người và hàng chục ngàn máy bay.
Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, không quân Mỹ đã phải huy động gần ½ lực lượng của mình để chiến đấu tại Việt Nam. Họ mất hàng ngàn máy bay với hàng trăm phi công bị bắt giữ nhưng không đạt được bất kỳ mục tiêu chiến lược nào. Họ không thể phá hủy năng lực công nghiệp quốc phòng của Hà Nội vì các nhà máy sản xuất vũ khí lại nằm ở Liên Xô và Trung Quốc. Họ không thể ngăn chặn hoàn toàn việc vận chuyển vũ khí và người của miền Bắc vào Nam. Và chiến thắng duy nhất mà họ có thể nói là cuộc ném bom vào Giáng sinh năm 1972 đã buộc Hà Nội phải ký vào hiệp định Paris năm 1973 (với nội dung chẳng khác gì nội dung mà Hà Nội đã đồng ý trước ném bom) và hiệp định này là sự mở đầu của việc chính quyền Sài Gòn sụp đổ.
Ở các cuộc chiến vùng vịnh, Nam Tư và Apghanistan thì không quân Mỹ không có đối thủ vì Iraq quyết định di chuyển các máy bay của họ sang Iran, Nam Tư thì cất giấu không quân của họ và Taliban thì không có không quân. Tuy không quân Mỹ đạt được tất cả các mục tiêu đề ra với thiệt hại rất ít trong cuộc chiến này nhưng các cuộc không kích của họ đã phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hạ tầng dân sự quan trọng nhất của đối phương (thông tin, năng lượng, giao thông, cơ sở hạ tầng…) khiến cho việc tái thiết các quốc gia này trở nên lớn khủng khiếp và gây đau khổ cho toàn bộ người dân của các nước này.
Nếu ta đem so sánh các cuộc chiến trên với cuộc chiến ở Ukraine thì có thể thấy rằng không quân Nga trong cuộc chiến này đạt được nhiều nhất với thiệt hại rất thấp so với gì họ đạt được.
Trước hết, đó là sự hủy diệt nền công nghiệp quốc phòng của Ukraine. Sau khi mất Crimea năm 2014, Ukraine đã cố gắng xây dựng lại nền công nghiệp quốc phòng một thời hùng mạnh của mình. Họ tự phát triển ra các loại khí tài có xu hướng thoát ly khỏi nguồn gốc Liên Xô và mang hơi hướng của NATO như xe tăng, xe bọc thép. Họ thậm chí còn cố gắng tìm cách xuất khẩu các vũ khí này. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau khi cuộc chiến bắt đầu, tất cả các khí tài mới này biết mất khỏi chiến trường và kể từ thời gian chuẩn bị cho cuộc phản công ở Nam Kharkov (tháng 9/2022) thì không ai còn lạ gì việc quân Ukraine có thể tổ chức phản công được hay không là phụ thuộc vào họ nhận được viện trợ gì từ phương Tây.
Trong những tháng đầu của cuộc chiến, báo chí phương Tây đã rầm rộ đưa tin khiến cho mọi người nghĩ rằng việc Nga sẽ thất bại hay không phụ thuộc vào các UAV của Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, sau khi các UAV này liên tục bị bắn rơi thì “vũ khí của chiến thắng” lại là các tên lửa chống tăng và tên lửa vác vai phòng không của NATO. Người Ukraine vẽ tranh các thánh Cơ đốc giáo mang trên tay tên lửa Javelin hay Stinger với ý nghĩa đó sẽ là vũ khí của chiến thắng. Sau khi hình ảnh quân Nga bắt được rất nhiều các tên lửa Javelin và chống tăng của NATO thì hình ảnh tên lửa Javelin được thay thế bởi các trọng pháo 155mm và pháo tự hành của Mỹ và các nước NATO. Rồi sau khi xuất hiện hình ảnh các trọng pháo này liên tiếp bị các UAV của Nga phá hủy thì xuất hiện vũ khí HIMARS. Sau các tuyên truyền rầm rộ về sự chính xác của HIMARS thì các vũ khí tự nhiên không được nhắc tới trong vài tháng gần đây. Cựu cố vấn cao cấp về quân sự của bộ trưởng quốc phòng Mỹ dưới thời Trump, đại tá Douglas Macgregor nói thẳng ra rằng người Nga đã tập trung vào việc tiêu diệt các thiết bị này và do HIMARS được các sỹ quan NATO trực tiếp điều khiển nên cả hai bên đều không đề cập tới việc các hệ thống này bị tiêu diệt. (Về cựu cố vấn Macgregor thì các bạn có thể tìm hiểu thêm về ông. Macgregor là một trong những quân nhân được tặng thưởng cao nhất trong cuộc chiến vùng Vịnh và ông được coi là anh hùng trong trận 73 Easting với lực lượng xe tăng của vệ binh cộng hòa Iraq năm 1971. Trận này được coi là trận “đấu tăng lớn nhất cuối cùng của thế kỷ 20” trong đó lực lượng do Macgregor chỉ huy đã đánh bại toàn bộ lực lượng xe tăng và thiết giáp Iraq mà không chịu một thiệt hại nào).
Sau các tuyên truyền về HIMARS như là vũ khí chiến thắng thì báo chí phương Tây lại nói đến xe tăng Leopard 2 và Abram của Đức và Mỹ như là vũ khí để Ukraine có thể trụ vững. Rồi trong tuần vừa qua thì tổng thư ký của NATO nói rằng việc Ukraine có thể đứng vững hay không phụ thuộc vào số lượng đạn pháo mà phương Tây cung cấp (và điều đáng lưu ý là số lượng đạn pháo mà Ukraine cần lại lớn hơn nhiều lần số lượng đạn pháo mà NATO có thể sản xuất vào thời điểm hiện tại).
Cái chúng ta thấy ở đây là chỉ sau 1 năm chiến tranh, phương Tây và Ukraine đã đi từ “vũ khí để chiến thắng” tới “thứ để cho Ukraine có thể đứng vững” – và tất cả những thứ đó đều là của phương Tây sản xuất. Lực lượng không quân và tên lửa Nga đã đạt được mục tiêu của họ - Ukraine giờ đây không còn có khả năng tự sản xuất cả vũ khí lẫn đạn dược ở quy mô công nghiệp. Nói một cách khác, nền công nghiệp quốc phòng đã biến mất. Trong toàn bộ các cuộc chiến tranh trên không đã nêu ở trên, không một bên nào đạt được kết quả rõ ràng như người Nga ở Ukraine.
Về thiệt hại và lực lượng huy động, chúng ta thấy rằng người Nga đã huy động một số lượng máy bay thấp hơn rất nhiều lần so với số lượng của các cuộc chiến tranh trước kia. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, mỗi cuộc ném bom vào các mục tiêu chiến lược sâu trong đất đối phương người Mỹ và Anh huy động từ 500 tới 1.000 máy bay xuất kích cùng lúc và thiệt hại của lực lượng không quân của cả Anh và Mỹ trong các cuộc ném bom là 160 ngàn (80 ngàn cho mỗi quốc gia). Trong chiến tranh Việt Nam, mỗi lần tấn công vào chỉ riêng cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa, người Mỹ huy động từ hàng chục tới cả trăm máy bay các loại. Trong chiến tranh vùng Vịnh và Nam Tư, số máy bay được huy động lên tới hơn ngàn chiếc và mỗi lần tham chiến thì con số là từ hàng chục tới hàng trăm. Trong cuộc chiến Ukraine, chưa bao giờ có trên 30 chiếc máy bay ném bom của Nga cùng xuất hiện trên bầu trời. Tuy nhiên, đến nay có thể nói rằng không có bất kỳ một địa điểm nào trên đất Ukraine là an toàn khỏi các cuộc tấn công đường không của Nga (và cách tốt nhất để một địa điểm không bị tấn công là không có các kho tàng, cơ sở quân sự ở đó).
Về mặt chiến lược, cách thức Nga tiến hành cuộc chiến trên không hiệu quả tới mức Ukraine và phương Tây (cho tới thời điểm này) phải dựa vào một chiến lược kỳ lạ, lần đầu tiên có trong lịch sử không chiến 100 năm. Tuy nhiên, trước khi nói về chiến lược này, chúng ta nên xem xét chiến lược để chiến thắng của các bên trong các cuộc chiến trước kia.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, chiến lược của các bên đơn giản là không quân của ta sẽ gây thiệt hại cho không quân của địch tới mức họ không còn có thể đào tạo được phi công và sản xuất ra máy bay nữa.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, chiến lược của Đồng Minh là chúng ta sẽ ném bom họ tới khi nền sản xuất quốc phòng và hậu cần của họ không còn hoạt động hiệu quả nữa. Chúng ta sẽ buộc không quân Đức phải nghênh chiến với tiêm kích của ta và tiêu hao họ cho tới khi họ không còn phi công giỏi để chiến đấu nữa. Chiến lược của Đức là, chúng ta sẽ bắn rơi máy bay của họ tới mức mà thiệt hại về người và máy bay của họ trở nên không chịu đựng được và dừng ném bom.
Trong chiến tranh Việt Nam thì chiến lược ném bom của Mỹ là chúng ta sẽ ném bom khiến cho họ không thể tiếp viện cho miền Nam và họ tin rằng nếu tiếp tục thì miền Bắc sẽ quay về thời kỳ đồ đá. Lúc đó, Hà Nội sẽ chấp nhận thua. Chiến lược của Việt Nam đơn giản là chúng ta giữ vững tiếp vận cho miền Nam và bắn rơi máy bay của họ khiến cho cái giá họ phải trả cao tới mức họ không thể tiếp tục được nữa. Chúng ta sẽ tiếp tục chống trả cho tới khi cả thế giới thấy rõ là các cuộc ném bom của Mỹ chủ yếu là nhằm khủng bố tinh thần nhân dân chứ không phải vào các mục tiêu quân sự và tạo ra sức ép chính trị khiến họ phải ngừng lại.
Tuy nhiên, có vẻ như người Nga đã nghiên cứu kỹ tất cả các chiến lược nêu trên (của cả bên tấn công lẫn bên phòng thủ) và họ đưa ra một giải pháp tính tới tất cả các chiến lược trên.
Như ở trên đã nói, bằng việc sử dụng tên lửa để tấn công các mục tiêu trong hậu phương kẻ thù, người Nga đã giảm thiểu thiệt hại của lực lượng không quân chính quy. Việc cung cấp cho Wagner các máy bay chiến đấu Su-24, Su-25 trên chiến trường khiến cho quân Nga vẫn có khả năng chế áp từ trên không nhưng thiệt hại sẽ không ảnh hưởng nhiều tới lực lượng chính quy (vì các phi công của Wagner là các phi công chiến đấu đã về hưu, chuyển ngành và tình nguyện chiến đấu theo hợp đồng). Việc sử dụng hàng loạt “bom lượn” với sức công phá lớn hiện nay sẽ giúp cho Nga tăng cường độ phá hoại của các cuộc tập kích đường không đối với khu vực tiền tuyến của Ukraine mà vẫn bảo toàn được lực lượng không quân chính quy.
Vào những tháng đầu tiên của cuộc chiến, phương Tây nghĩ rằng người Nga đang lặp lại chiến thuật “sốc và sợ hãi” (shock and awe) mà họ đã dùng ở Iraq và Nam Tư. Chiến thuật sốc và sợ hãi bao gồm 2 giai đoạn. Ở giai đoạn 1 (shock), phương Tây dùng tên lửa hành trình và máy bay tàng hình tấn công phủ đầu các trung tâm thông tin, đầu não lãnh đạo của đối phương, các cơ sở quân sự, kinh tế quan trọng nhất và hệ thống phòng không để gây tê liệt cho việc phòng thủ. Sau khi đã tiêu diệt các mục tiêu quan trọng nhất đó không quân sẽ đưa các máy bay vào để thực hiện giai đoạn hai “sợ hãi” (awe). Đó là việc các máy bay sẽ ném bom vào tất cả các mục tiêu có khả năng phục vụ cho phòng thủ trên bộ (bao gồm cả quân sự lẫn dân sự) và gây hoảng sợ, tê liệt về tâm lý cho người dân và quân đội đối phương.
Khởi đầu của cuộc chiến của Ukraine cũng có vẻ như vậy, người Nga tấn công hàng loạt mục tiêu bằng các tên lửa có độ chính xác cao. Tuy nhiên, chỉ sau 2 tuần thì báo chí phương Tây bắt đầu cười nhạo Nga, cho rằng người Nga cố bắt chước phương Tây nhưng không có đủ lực. Họ thấy rằng tuy toàn bộ các thành phố lớn của Ukraine đều bị tấn công nhưng toàn bộ đời sống của dân thường không hề bị ảnh hưởng. Không như ở Iraq và Nam Tư - nơi chỉ sau một tuần là toàn bộ đời sống dân sự bị đảo lộn vì không có nước sạch, không có điện, giao thông bị ngừng trệ, không truyền hình, phát thanh – thì ở Ukraine mọi thứ vẫn diễn ra bình thường. Ngoại trừ các cơ sở quân sự bị tấn công hoặc một số cơ sở dân sự bị phá hủy do phía Nga xác định lầm mục tiêu hay do tên lửa phòng không của Ukraine phá hủy do bị lỗi thì người dân vẫn có thể live stream hình ảnh các cuộc tấn công của tên lửa Nga, xem TV, vào internet.
Vào năm 1940, khi các máy bay ném bom của Luftwaffe biến mất trên bầu trời London năm 1940 thì có nghĩa là người Anh đã thắng trong “the battle of Britain”. Tương tự như vậy, khi giai đoạn shock qua đi nhưng lại không thấy không quân Nga xuất hiện trên bầu trời các thành phố và ném bom như ở Nam Tư và Iraq, truyền thông phương Tây cho rằng người Nga đã thất bại trong cuộc chiến trên bầu trời Ukraine.
Đây là thời điểm mà truyền thông phương Tây say mê các câu chuyện như “bóng ma Kiev” (về một phi công Ukraine bắn rơi nhiều máy bay Nga) hay chip của máy giặt, máy rửa bát phương Tây được lắp trên tên lửa của Nga. Khi không quân Nga vẫn vắng bóng và các đợt tên lửa bắt đầu đều đặn giáng xuống, họ, với niềm tin rằng không có một chiến thuật shock and awe nào có thể thành công nếu như giai đoạn awe (sợ hãi) không có sự tham gia của không quân ném bom. Chính vì vậy, họ bắt đầu đưa ra hai huyền thoại.
Thứ nhất, các cuộc tấn công tên lửa của Nga không phải là các bước tấn công có hệ thống mà chỉ là các hành vi trả đũa cho các thiệt hại đau đớn trên chiến trường. Cùng với các fake news rằng Putin bị ung thư sắp chết thì “hành vi trả đũa” này cũng được gán cho các cơn nóng giận của Putin để nói rằng ông ta sắp phát điên vì thất bại trên chiến trường.
Thứ hai, họ bắt đầu nói tới việc người Nga không sản xuất chip nên rất sớm thôi, số tên lửa đã sản xuất của Nga sẽ cạn vì các cơn giận dữ của Putin và nước Nga sẽ không thể sản xuất được tên lửa mới vì không có chip điều khiển. Vấn đề này được bộ trưởng thương mại Hoa Kỳ, Gina Raimondo nêu lên hồi tháng 5/2022 và nguồn tin của bà là tình báo Ukraine!
Với hai huyền thoại trên, bắt đầu hình thành một thói quen mới của báo chí phương Tây là trích dẫn các báo cáo của tình báo Litva hoặc tình báo Anh về số lượng tên lửa đã bắn và còn lại trong kho của Nga. Thời kỳ đầu, những con số tên lửa còn lại này của Nga đã khiến nhiều người tin rằng cuộc chiến trên bầu trời Ukraine sẽ chấm dứt sau vài tuần, hoặc cùng lắm vài tháng. Tuy nhiên, sau 1 năm chiến tranh, thì không còn nhiều người quan tâm tới câu chuyện này nữa ngoài một người (mà có lẽ 5 năm trước nói tên ông ra sẽ không ai tin). Đó là cựu tổng thống Nga, Medvedev. Ông Medvedev có lẽ là người thích thú nhất trong việc nhắc đi nhắc lại trên trang telegram của mình sau mỗi đợt tấn công tên lửa rằng Nga vẫn còn nhiều tên lửa và họ vẫn sẽ tiếp tục cho thấy điều đó.
Cách đây 1 tháng, phương Tây phát hiện trên các tên lửa mà Nga bắn vào Ukraine có các con chip của Mỹ được sản xuất trước đó vài tháng. Điều đó có nghĩa là việc cấm vận các con chip có thể dùng trong quân sự không ngăn Nga có được chúng, kể cả khi chiến tranh đã nổ ra. Điều này cũng sẽ dẫn tới việc đặt ra câu hỏi là trong suốt 8 năm qua, (kể từ khi người Nga chiếm Crimea) họ đã mua dự trữ bao nhiêu con chip? Và cả trước đó, họ đã mua và dự trữ bao nhiêu nữa?
Khác với những gì người ta hay nghĩ rằng quân sự cần các con chip càng mới, càng phức tạp hiện đại (giống như ta cho rằng dùng iPhone thì luôn phải có chiếc iPhone vừa mới ra mắt). Tuy nhiên, một thực tế là từ lâu rồi, các nhu cầu tính toán của dân sự đã vượt qua nhu cầu tính toán của quân sự rất xa. Ít người biết rằng hệ thống máy tính điều khiển các con tàu Apollo lên mặt trăng và quay lại trái đất của Mỹ có năng lực tính toán kém xa một chiếc máy tính màn hình đơn sắc mà Việt Nam có những năm 1990. Ít người biết rằng việc đổ bộ của chiếc xe tự hành của Mỹ đổ bộ lên sao Hỏa vào năm 2020 - với toàn bộ các tính toán về quỹ đạo khi vào khí quyển tới địa điểm đổ bộ được tính chính xác tới đơn vị mét và hàng loạt các thí nghiệm về vật lý, thiên văn, khí tượng, địa chất… sẽ được tiến hành sau đó – lại được điều hành bởi 1 con chip Pentium 1 sản xuất năm 1992. Cũng ít người biết rằng các máy tính của hệ thống điều khiển toàn bộ lực lượng hạt nhân của Mỹ (từ tên lửa liên lục địa mang đầu đạn hạt nhân, máy bay ném bom chiến lược và tên lửa hạt nhân trang bị trên tàu ngầm), Strategic Automated Command and Control System của Mỹ đến tận năm 2018 vẫn sử dụng các đĩa mềm 512kb (các đĩa này đã không còn dùng ở Việt Nam từ những năm 1990).
Điều này không có nghĩa là nước Mỹ không có tiền để hiện đại hóa mà đơn giản là các nhu cầu tính toán đạn đạo và điều khiển hệ thống tên lửa này hoàn toàn được đáp ứng bởi các máy tính trên (và quan trọng hơn nữa là các hệ thống đó hoạt động ổn định – reliability là một trong các yêu cầu quan trọng nhất cho mọi loại vũ khí). Nói một cách đơn giản là việc tính toán đạn đạo cho một quả tên lửa đơn giản và đòi hỏi ít tài nguyên hơn rất nhiều so với việc tính toán và xử lý đồ họa cho các game phổ thông hiện nay. Khi Sony bắt đầu bán các máy chơi game PlayStation 2 vào năm 2000 thì việc xuất khẩu các máy này trong giai đoạn đầu tiên bị kiểm soát vì bộ xử lý của nó hoàn toàn có thể được lắp trên hệ thống điều khiển các tên lửa hành trình. Một chút thông tin thêm cho các bạn là tên lửa hành trình có độ chính xác cao Tomahawk của Mỹ được sản xuất lần đầu tiên vào những năm 1970s và được sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất 1991 (9 năm trước khi PlayStation 2 ra đời) và tên lửa hành trình Kalibr của Nga được nghiên cứu trong những năm 1980s và đưa vào sẵn sàng chiến đấu năm 1994 (6 năm trước khi PlayStation 2 được phát hành). Tuy nhiên, do nhu cầu tính toán và đồ họa của game đã phát triển quá nhanh (và vượt qua nhu cầu quân sự) nên, sau khi các thế hệ PlayStation 3, 4 và 5 của Sony ra đời, không có ai còn quan tâm rằng nó có thể sử dụng trên các tên lửa nữa.
Vào tháng 9/2022, tờ Politico đưa ra một danh sách các con chip và kết nối (connector) mà quân đội Nga đang săn lùng trên thị trường để lắp lên các tên lửa và thiết bị của mình. Đây là một danh sách dài nhưng tôi sẽ đưa lên một phần của mục các linh kiện tối cần thiết, các linh kiện quan trọng nhất (xem hình). Điều đáng ngạc nhiên là với những con chip mà tờ Politico nói rằng người Nga (vào tháng 9/2022) phải mua với giá hơn 1.000 đô la Mỹ thì trước khi nổ ra chiến tranh chỉ có giá dưới 20 đô la. Và bản thân tất cả các con chip này, nếu chúng ta search, sẽ thấy vẫn được bán đầy trên các trang thương mại điện tử trực tuyến như alibaba (vào thời điểm của bài viết này, tháng 3/2023).
Để hiểu xem liệu người Nga có thể mua được các con chip bán đầy trên mạng như vậy không thì ta hãy xem lại vụ scandal nổi tiếng đối với hãng Toshiba năm 1987. Ở phần cải cách hải quân của Liên Xô ở bên trên tôi đã nói về việc người Nga vào những năm 1980 đã chuyển nguồn lực đầu tư cho hải quân sang tập trung đóng các tàu ngầm hạt nhân cỡ lớn để mang các tên lửa hạt nhân xuyên lục địa – và quyết định đó sau 50 vẫn đúng đắn. Để đối phó với các tàu ngầm này, trong suốt cuộc chiến tranh Lạnh, người Mỹ buộc phải cho các tàu ngầm tiến công phục ở ngoài các căn cứ tàu ngầm của Liên Xô và khi các tàu ngầm nguyên tử Liên Xô rời cảng thì tàu Mỹ sẽ đi theo. Chiến thuật của họ là nếu phát hiện tàu ngầm Liên Xô chuẩn bị phóng các tên lửa hạt nhân thì sẽ tấn công tiêu diệt bằng ngư lôi. Để đối phó lại chiến thuật đó, người Nga tập trung vào việc khiến cho các tàu ngầm hạt nhân của mình khó bị theo dõi, tức là vô hiệu hóa hệ thống định vị bằng âm thanh của tàu ngầm Mỹ. Muốn trở nên vô hình trước các hệ thống sonar này thì phải giải quyết được vấn đề sóng siêu âm phản xạ từ tàu. Người Nga đã có các giải pháp cho lớp vỏ tàu đồ sộ để giảm thiểu sự phản hồi sóng âm từ máy sonar từ tàu Mỹ. Tuy nhiên, họ có một vấn đề không thể giải quyết được là mỗi khi chân vịt của tàu chạy với tốc độ cao thì sẽ tạo ra một lượng bong bóng rất lớn. Các bong bóng này phản hồi rất mạnh các sóng âm từ máy dò của Mỹ. Do đó, muốn tàng hình trong lòng biển thì các chân vịt phải không tạo ra bọt khí khi quay nhanh. Để làm được việc này thì bề mặt kim loại của chân vịt phải được mài theo một cách nhất định. Người Nga có các công thức để tính toán cách mài các chân vịt đó. Tuy nhiên họ không có các máy cơ khí có thể thực hiện việc gia công kim loại như phương trình tính toán. Khi Liên Xô không sản xuất được thì họ mua. Và họ đã mua toàn bộ các thiết bị cần thiết cùng với phần mềm đi kèm từ Toshiba Machine. Các thế hệ tàu ngầm của Liên Xô sử dụng các chân vịt được chế tác bởi máy của Toshiba đã thay đổi toàn bộ bức tranh cân bằng hạt nhân giữa Nga và Mỹ (vì các tàu ngầm của Liên Xô trở thành các “hố đen” trong biển sâu – thuật ngữ của các chuyên gia thủy định vị Mỹ chỉ các vật thể không thể xác định được bằng sóng âm). Các tàu ngầm Kilo mà Việt Nam có hiện nay cũng được trang bị các chân vịt được chế tạo bởi công nghệ mà Toshiba đã bán cho Liên Xô.
Nếu Liên Xô ít ngoại tệ nhưng vẫn có thể mua được những cỗ máy có kích thước khổng lồ, thuộc diện độc nhất vô nhị và cương quyết bị ngăn chặn xuất khẩu công nghệ như vậy giữa đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh thì chúng ta có thể đoán được là số lượng các con chip (có giá rẻ dưới 20 đô mà bất cứ ai cũng có thể mua trên các trang thương mại điện tử) mà nước Nga tích trữ được trong suốt 10 năm qua ra sao.
Khả năng tự sản xuất chip của Nga cũng là một câu hỏi lớn. Các nhà đánh giá phương Tây đều thống nhất rằng người Nga không có khả năng tự sản xuất chip (thực ra người Mỹ cũng vậy, cả thế giới tự thiết kế rồi nhờ người Đài Loan hoặc Hàn Quốc sản xuất chip cho mình). Song chúng ta cũng thấy rằng người Mỹ trong rất nhiều năm đã luôn đánh giá rằng người Nga không có khả năng sản xuất các vũ khí chính xác (tên lửa hành trình của Mỹ được sản xuất năm 1970s còn của Nga mãi năm 1994 mới đưa vào trực chiến). Tuy nhiên, cuộc chiến Ukraine cho thấy người Nga không chỉ sản xuất được vũ khí chính xác như người Mỹ mà còn có những thứ người Mỹ không có (ví dụ như tên lửa siêu thanh).
Do đó, chúng ta cần xem xét một số yếu tố khác (ngoài các nhận định của chuyên gia phương tây về việc sản xuất chip của Nga). Năng lực thiết kế và sản xuất chip của Nga là một câu hỏi lớn và có rất ít thông tin. Thế giới biết chắc chắn rằng, thừa hưởng của Liên Xô, người Nga tự sản xuất được các con chip 600 nanometer. Đây là công nghệ chip được thế giới đưa vào sản xuất năm 1990 và được người Nga trang bị trên các vũ khí thông minh đời đầu của mình những năm 1990s-2000s.
Các thông tin về việc sản xuất chip của Nga một lần nữa nổi lên vào năm 2007 khi Angstrem-T, tổ hợp sản xuất chip của Liên Xô đã được tư nhân hóa, có ý định mua lại dây chuyền sản xuất chip 130 nm của ADM năm 2007 (công nghệ 130 nm là công nghệ được đưa vào sản xuất năm 2001). Vào năm sau, 2008, Angstrem-T lập một liên doanh với M+V Group, một công ty hàng đầu của Đức về sản xuất chip với mục đích được công bố là sẽ sản xuất chip 130 nm ở Zelenograd. Sau đó, toàn bộ thông tin về việc tiến trình sản xuất biến mất cho tới năm 2018, Angstrem-T tuyên bố phá sản và được mua lại bởi một công ty nhà nước của Nga (VEB.RF). Trong cáo bạch khi phá sản thì Angstrem-T thậm chí còn chưa sản xuất được chip 250 nm (công nghệ được giới thiệu năm 1996). Tuy nhiên, dù có vẻ là công nghệ của Angstrem-T không ra gì nhưng VEB.RF đã kiện Angstrem-T ra tòa và lấy toàn bộ các máy móc của công ty này. Thật tình cờ là người đứng đầu của VEB.RF là Leonid Reiman, người từng là bộ trưởng về công nghệ viễn thông trong chính phủ Nga và thuộc “nhóm St. Petersburg” của Putin (những người thân cận nhất của Putin xuất thân từ Leningrad và có những mối quan hệ với ông từ thời KGB).
Về phía đối tác của Angstrem-T, công ty M+V Group của Đức, chỉ 1 năm sau khi lập liên doanh với Angstrem-T, năm 2009, đã có chủ mới (sở hữu 100% của M+V Group) là Stumpf Group, một công ty xây dựng ở Áo được Georg Stumpf một doanh nhân Áo (sinh năm 1972) thành lập vào năm 1994. Thành lập vào năm 1994 với 1 triệu shilling (tiền Áo) nhưng chỉ 3 năm sau, vào năm 1997, doanh nhân này đã xây một tòa tháp cao nhất thủ đô Vienna. Điều đáng quan tâm là tòa nhà này xây sai mọi quy định và giấy phép (cao thực tế là 202 mét so với 140 mét trong giấy phép xây dựng) và chính quyền Vienna cũng phải đồng ý với thực trạng đó. Vào năm 2003, doanh nhân người Áo này bán tòa tháp đi vào 2 năm sau, năm 2005, Stumpf Group đã mua công ty OC Oerlikon, một công ty nghiên cứu chip của Thụy Sỹ. Stumpf cũng là người hợp tác với Viktor Vekselberg, một doanh nhân Nga gốc Do Thái, để mua hàng loạt công ty công nghệ cao của Thụy Sỹ. Về doanh nhân Vekselberg, người sát cánh cùng Stumpf đi thâu tóm các công ty công nghệ Thụy Sỹ thì chỉ cần nói đơn giản là ông là một trong những tài phiệt Nga đứng đầu bảng trong danh sách cấm vận và trừng phạt của Mỹ.
Năm 2009, 1 năm sau khi Angstrem-T thành lập liên doanh với M+V Group của Đức, thì Stumpf Group mua lại 100% công ty M+V Group.
Vào tháng 6/2022, MCST, công ty sản xuất con chip mang tên Elbrus của Nga tuyên bố rằng họ sẽ thay thế việc sản xuất chip bởi TSMC (Đài Loan) bằng dây chuyền sản xuất chip trong nước tại thành phố Zenelograd (thành phố mà Angstrem-T đã thành lập nhà máy liên doanh với M+V Group của Đức trước kia). Các viện nghiên cứu tin học của Nga cũng đề xuất với chính phủ một chương trình đầy tham vọng là sẽ tự sản xuất các con chip 7nm vào năm 2028 và cũng sẽ được sản xuất tại thành phố này.
Kinh nghiệm từ vụ việc Toshiba Machine và các tình tiết nêu trên cho chúng ta thấy sẽ là quá bất thường nếu tất cả các câu chuyện xoay quanh công nghệ của ADM (nhà sản xuất chip ngày nay đang được cho là sẽ soán ngôi Intel và, thật tình cờ, là người đã tuyên bố tập trung hoàn toàn vào thiết kế chip năm 2008, một năm sau thương vụ với Angstrem-T của Nga), Angstrem-T (một công ty nhà nước Liên Xô về sản xuất chip và rồi sau khi đi một vòng lại trở thành công ty 100% thuộc nhà nước Nga), hai nhà tài phiệt Nga đều thuộc diện đặc biệt thân cận với Putin và có quan tâm đặc biệt tới việc mua lại các công ty công nghệ cao của Đức và Thụy Sỹ, một tỷ phú Áo khởi nghiệp với 1 triệu đồng shillings với các thức xây dựng hệt như các đại gia bất động sản của Việt Nam và chỉ trong vòng 20 năm lọt vào danh sách những tỷ phú giàu nhất thế giới, và cuối cùng là chương trình đầy tham vọng về sản xuất chip của Nga và những tuyên bố là tên lửa sẽ không bao giờ cạn của Medvedev. Có quá nhiều thứ để cho rằng tất cả các thứ đó chỉ là tình cờ.
Trong lúc đó, Trung Quốc, vào tháng 4/2022 đã thông báo rằng SMIC, một công ty của họ, đã sản xuất được chip 7nm (thứ mà người Nga, với hết tất cả các kỳ vọng lạc quan nhất, thì cũng phải tới 2028 may ra mới sản xuất được). Các công ty của Mỹ đạt được ngưỡng 7nm vào năm 2018 và hiện nay đã sản xuất được chip 3nm. Tuy đây là một cuộc đua chóng mặt giữa Mỹ và Trung Quốc (và tuyệt đại đa số các chuyên gia ngoài Trung Quốc vẫn tin tưởng là quốc gia này không thể đuổi kịp Mỹ chứ chưa nói tới đánh bại) thì vấn đề vẫn không quá ảnh hưởng tới sức mạnh quân sự Nga. Vào thời điểm hiện nay, các con chip mà Nga sử dụng được cho là sử dụng công nghệ chip 65 nm (ra đời năm 2005) tới 22 nm (ra đời năm 2012). Đây là các con chip đã trở nên quá thông dụng trong cuộc sống hàng ngày (để dễ tưởng tượng, các bạn hãy mang những chiếc laptop xịn nhất vào năm 2005 và 2012 ra và đặt lên bàn thì sẽ biết). Nếu Trung Quốc muốn hỗ trợ Nga, họ có thể sản xuất những con chip đó một cách vô danh hoặc là cung cấp cho Nga chính dây truyền sản xuất này vì nó đã trở thành lạc hậu với họ.
Do đó, bài toán đặt ra là nếu người Nga muốn sản xuất các con chip có thể cạnh tranh được với các con chip của các công ty Mỹ sản xuất thì câu trả lời chắc chắn sẽ là “không”. Tuy nhiên, nếu câu hỏi đặt ra là họ có thể có đủ số chip lạc hậu 10 tới 15 năm so với công nghệ dân sự hiện nay thông qua mua trữ, mua lậu hoặc mua sản phẩm tương tự từ Trung Quốc không thì câu trả lời lại là “có”. Thực ra câu chuyện rằng người Nga tháo các con chip từ máy giặt và nồi nấu cơm điện để chế tạo tên lửa cũng có một phần đúng – đó là quả thực các con chip có tính năng kỹ thuật như người Nga đang sử dụng trên các vũ khí của mình tương đương với các con chip trong các thiết bị dân dụng đó thật. Tuy nhiên, người Nga sẽ không phải mua 1 chiếc máy giặt về chỉ để tháo chip mà họ đơn giản là mua nó qua các con đường khác nhau và rất có thể là họ đã tự sản xuất được nó.
Vậy chúng ta đi một vòng khá xa về chuyện các con chip thì liên quan gì tới hoạt động của không quân Nga tại Ukraine? Sự liên quan ở đây là, theo cá nhân tôi, ông Medvedev đã nói sự thật là tên lửa của Nga sẽ không cạn. Điều này có nghĩa là người Nga sẽ tiếp tục cách thức đánh phá Ukraine từ trên không theo cách hiện nay. Đối với các mục tiêu sâu trong nội địa, họ sẽ sử dụng tên lửa. Đối với các mục tiêu gần tiền tuyến, họ sẽ sử dụng “bom lượn”, và không quân Nga sẽ giữ gìn được lực lượng của mình thông qua cách thức chiến tranh đó.
Câu hỏi tiếp theo là, nếu cách thức chiến tranh đường không như vậy thì liệu là Nga có đạt được những gì mà không quân Mỹ đạt được ở Iraq và Nam Tư không? Câu trả lời là “không” và “có”.
Nếu mục tiêu của không quân Nga là làm tê liệt toàn bộ hệ thống chỉ huy quân sự, các kho tàng, nền công nghiệp quốc phòng cùng với làm tê liệt toàn bộ nền kinh tế và đời sống dân thường như trong các cuộc không kích của không quân Mỹ thì câu trả lời là “KHÔNG”. Lý do là có vẻ chiến lược ném bom của Nga không nhằm vào tất cả các thứ đó, hoặc ít nhất tới thời điểm này họ chưa nhằm tới những thứ đó. Mặc dù chúng ta đã thấy rằng tên lửa của Nga có thể đánh trúng bất kể tòa nhà nào họ muốn trên đất Ukraine nhưng vào ngày mở màn chiến dịch (và cho tới tận ngày nay), tất cả các tòa nhà của các cơ quan đầu não của quân đội và chính quyền Ukraine không bị tấn công (ngoại trừ tòa nhà của SBU và cái được cho là “trụ sở bí mật” của lực lượng NATO tại Ukraine bị đánh tên lửa để trả đũa cho 2 vụ tấn công bằng UAV của Ukraine vào Nga). Có vẻ như là người Nga đang đi theo vết xe đổ của người Mỹ trong việc lựa chọn các mục tiêu để ném bom ở miền Bắc Việt Nam.
Trong chiến tranh Việt Nam, vì e ngại rằng cuộc chiến sẽ có thể bất ngờ leo thang và mở rộng ra (với sự tham gia của Trung Quốc và Liên Xô) nếu các cuộc ném bom của Mỹ đánh thẳng vào các cơ quan của Đảng Cộng sản và Chính phủ tại Hà Nội hoặc các mục tiêu chiến lược mà người Mỹ nghi là có sự hiện diện của chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc, nên người Mỹ thực hiện việc lựa chọn mục tiêu ném bom theo cách “theo thang”. Cứ mỗi khi các cuộc đàm phán tại Paris bế tắc hoặc lực lượng quân giải phóng miền Nam Việt Nam có một cuộc tấn công lớn ở miền Nam thì người Mỹ lại nâng cấp các mục tiêu bị ném bom. Đó là lý do mà Hồ chủ tịch từ năm 1965 đã dự đoán rằng người Mỹ sẽ chỉ ký hiệp định hòa bình với Việt Nam sau khi họ ném bom Hà Nội và thua trên bầu trời Hà Nội. Nếu người Nga đi theo hướng này thì có lẽ họ sẽ thất bại.
Về ý chí của đối phương, ban lãnh đạo của Ukraine, từ tổng thống Zelensky tới các quan chức thấp hơn đều nói rằng họ sẽ không có đàm phán hòa bình chừng nào quân Nga còn trên đất Ukraine. (Về ý chí người dân thì tôi không xem xét vì tôi tin rằng người dân Ukraine, cũng giống như người dân Anh và Đức trong thế chiến thứ hai và người Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ, sẽ không từ bỏ cuộc kháng chiến chỉ vì những khó khăn do các cuộc ném bom tạo ra).
Với thực lực của không quân Nga và phương thức ném bom hiện tại, không quân Nga không thể tạo ra được sự tê liệt về kinh tế và đời sống cho người dân Ukraine. Về tương quan giữa lực lượng và chất lượng giữa không quân Nga với lực lượng không quân và phòng không Ukraine thì không có chênh lệch rất lớn như tương quan giữa khối NATO với Iraq và Nam Tư trong hai cuộc chiến trước kia. Lãnh đạo Ukraine, khác với lãnh đạo Nam Tư và Iraq (những nước bị cô lập khi chiến tranh xảy ra) có sự hậu thuẫn của NATO nên họ sẵn sàng chiến đấu tới những chiếc máy bay, những tổ hợp tên lửa phòng không cuối cùng (vì họ tin tưởng rằng các nước đồng minh sẽ hỗ trợ các vũ khí thay thế). Điều này sẽ dẫn tới thiệt hại nặng nề cho Ukraine. Tuy nhiên, vấn đề là Nga không thể chấp nhận các thiệt hại do phía Ukraine gây ra cho lực lượng không quân của mình dù là họ có thể có tỷ lệ thiệt hại có lợi hơn nhiều. Lý do rất đơn giản là Ukraine có thể chấp nhận mất toàn bộ không quân và phòng không nhưng Putin không thể để hao hụt lực lượng không quân của mình trong khi lực lượng của NATO còn nguyên. Nền công nghiệp Nga có thể sản xuất các máy bay thay thế nhưng họ sẽ không thể thay thế kịp các phi công có kinh nghiệm trong cuộc chiến với Ukraine. Người Mỹ, trong chiến tranh Việt Nam, đã thấm điều này. Trong chiến tranh Việt Nam, mặc dù việc ném bom miền Bắc được leo thang từ từ nhưng với việc mỗi phi công sẽ được quyền rời khỏi chiến trường sau một số phi vụ nhất định ở miền Bắc thì người Mỹ phát hiện ra rằng số phi công tham chiếm tại Việt Nam của họ ngày càng gia tăng và chiếm một tỷ lệ rất lớn trong số các phi công của họ. Và điều nghiêm trọng hơn nữa là khi các phi công Mỹ tác chiến trên bầu trời miền Bắc thì họ phải đối phó không chỉ với các phi công trẻ, ít kinh nghiệm của không quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà với cả một hệ thống chỉ huy, hỗ trợ dưới mặt đất và một hệ thống phòng không dày đặc. Điều này khiến cho các phi công có kinh nghiệm từ thế chiến thứ 2 hay Triều Tiên cũng có cơ hội bị bắn rơi không khác gì các phi công trẻ. Và họ phát hiện ra rằng, nếu tiếp tục như vậy, khối quân sự Warsaw do Liên Xô đứng đầu sẽ không mất gì cả nhưng đối thủ trên không của họ là Mỹ sẽ bị hao mòn về phi công qua mỗi ngày không chiến trên bầu trời miền Bắc. Người Nga sẽ gặp chính những điều đó nếu như người Ukraine sử dụng các chiến thuật không quân du kích như miền Bắc Việt Nam và NATO cung cấp máy bay hỗ trợ như Liên Xô và Trung Quốc làm với Việt Nam trước kia.
Câu trả lời sẽ là “CÓ” nếu người Nga đặt mục tiêu cho các cuộc không kích của mình khác đi. Nếu mục tiêu của Nga cho không kích là phá hủy nền công nghiệp quốc phòng của Ukraine và phá hủy cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc kháng cự thì có vẻ như họ đã phương thức để thực hiện điều đó.
Sau khi các cơ sở công nghiệp quốc phòng bị phá hoại, người Nga bắt đầu chuyển mục tiêu của các cuộc đánh phá sang hệ thống năng lượng của Ukraine. Về tần số, các cuộc đánh phá này được tiến hành theo từng đợt cách nhau 15-20 ngày và về sau thì khoảng cách kéo dài ra hơn. Sau mỗi đợt tấn công, phía Ukraine đều công bố các khu vực bị ảnh hưởng vì mất điện và sau đó công bố các khu vực điện được phục hồi như trước khi bị tấn công. Phía Ukraine coi việc này là bằng chứng cho quyết tâm kháng cự của họ. Tuy nhiên, khi quan sát kỹ các mục tiêu, khu vực ảnh hưởng và thời gian bị ảnh hưởng bởi các cuộc tấn công đó, tôi lờ mờ nhận ra một số điều. Các mục tiêu của các cuộc tấn công hầu như không lặp lại. Có vẻ như người Nga đang nghiên cứu, thử nghiệm và vẽ sơ đồ các điểm yếu trong hệ thống năng lượng của Ukraine. Chúng ta biết rằng trong tháng 6 và tháng 10/2022, người Nga đã phóng một loạt vệ tinh quân sự để theo dõi Ukraine. Sau đó, các cuộc tấn công được gia tăng về cường độ. Có vẻ như, sau mỗi lần tấn công, người Nga sẽ quan sát xem các khu vực nào bị ảnh hưởng; các nhà máy, các ngành công nghiệp nào bị đình trệ; các lực lượng cứu trợ, khôi phục nhà máy từ đâu tới, tập hợp nguyên vật liệu ra sao. Chúng ta biết rằng, có những thời điểm khoảng 75% hệ thống đường sắt, tuyến vận chuyển huyết mạch chủ yếu cho trang thiết bị ra trận của Ukraine buộc phải chuyển sang sử dụng đầu tàu chạy diezel do mất điện vì các cuộc oanh kích của Nga. Tuy nhiên, sau khi người Ukraine khôi phục lại hệ thống này thì các cuộc tấn công lại chuyển hướng sang các mục tiêu khác. Có hai khả năng xảy ra ở đây.
Khả năng thứ nhất là đó là tất cả những gì không quân và tên lửa Nga có thể làm được: phá chỗ này một chút, làm ngưng trệ hoạt động chỗ kia một chút. Nếu đúng như vậy thì có nghĩa là không quân Nga không còn có vai trò gì lớn trong cuộc chiến ngoài vai trò thỉnh thoảng làm căng thẳng thần kinh và gây khó chịu cho người dân Ukraine ở hậu phương.
Khả năng thứ hai là người Nga đang chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công. Vào năm 1944, trong 1 tuần trước khi chiến dịch Bagration của Nga nổ ra (chiến dịch này sẽ đánh quỵ cụm tập đoàn quân Trung Tâm của Đức, giải phóng Belarussia và đưa quân Liên Xô tiến vào Ba Lan), du kích Liên Xô đã phá nổ gần 10.000 đoạn đường sắt trong hậu phương Đức. Việc này đã khiến cho việc vận chuyển quân và hậu cần của quân Đức trở nên đặc biệt khó khăn khi quân Liên Xô đột phá. Gần 80 năm sau, người Nga hiện nay không có 100 ngàn quân du kích hoạt động trong hậu tuyến địch như trước kia. Do đó, nếu họ muốn phá hoại việc vận chuyển hậu cần của Ukraine khi tổng tấn công nổ ra thì một mục tiêu hợp lý nhất chính là hệ thống đường sắt. Và nếu đánh vào đường sắt thì triệt tiêu hệ thống điện cung cấp cho các đoàn tàu và các trung tâm điều độ sẽ loại trừ ngay lập tức một phần lớn năng lực của vận tải đường sắt và việc này sẽ gây tê liệt trên toàn hệ thống chứ không phải gây thiệt hại một phần như khi đánh một đoạn đường, một cây cầu, một đường hầm tàu hỏa nào đó. Hơn nữa, việc đánh vào hệ thống điện sẽ khiến cho Ukraine phải căng mỏng hơn nữa lực lượng phòng không đã thiệt hại nhiều của mình. Tuy nhiên, điều này chỉ là phỏng đoán.
Vậy chiến thuật mà Ukraine có thể sử dụng để đánh thiệt hại không quân Nga là gì?
Tôi nghĩ rằng NATO và Ukraine đã tìm ra chiến thuật cho việc đó nhưng họ cần phải có thời gian thực hiện. Sau khi Ukraine đã được đào tạo lại một lực lượng phi công, họ sẽ tiến hành các thủ đoạn buộc không quân Nga phải xuất kích và tiến vào đất Ukraine. Từ đó, họ sẽ sử dụng chiến thuật du kích cho không quân hoặc hệ thống phòng không để bắn rơi máy bay Nga. Nếu họ thành công trong chiến thuật đó, không quân Nga sẽ buộc phải rút khỏi cuộc chiến.
Vậy chiến thuật đó là gì? Trước hết, NATO sẽ trang bị các bộ điều khiển cho không quân Ukraine để họ gắn lên các quả bom thông thường cỡ lớn và biến nó thành bom lượn. Sau đó, với thông tin tình báo do NATO cung cấp, họ sẽ sử dụng máy bay ném các bom lượn này từ sâu trong nội địa, cách mục tiêu từ 50-70 km. (Thực ra NATO đã cung cấp các bộ điều khiển này và Ukraine đã thử nghiệm trên chiến trường). Các thông tin tình báo của NATO trong một năm qua cho thấy rất lợi hại và người Ukraine đã sử dụng nó một cách hiệu quả để gây thiệt hại lớn cho quân Nga. Ví dụ, sự xuất hiện của HIMARS trên chiến trường Ukraine được đánh dấu bằng việc Ukraine đã sử dụng đạn này đánh trúng và tiêu diệt toàn bộ ban chỉ huy một sư đoàn của Nga, hoặc việc họ dùng HIMARS đánh trúng một doanh trại lớn gây chết hàng trăm binh sỹ mới nhập ngũ của Nga trong dịp năm mới. Thiệt hại cho quân Nga sẽ lớn gấp nhiều lần nếu các vũ khí được sử dụng để đánh trúng đó không phải là các đầu đạn tương đối nhỏ của HIMARS mà là các quả bom 1 tới 1,5 tấn. (ở khu vực Kherson, Ukraine đã phải bắn phá cây cầu Antonovka 8 lần bằng HIMARS cho tới khi cây cầu này không sử dụng được. Tuy nhiên, nếu sử dụng “bom lượn” thì có lẽ chỉ 1 quả bom 1,5 tấn cũng đủ làm sập hoàn toàn cây cầu này).
Một khi các bom lượn do máy bay Ukraine gây thiệt hại lớn cho quân Nga, các máy bay tiêm kích của Nga sẽ buộc phải xuất kích vào sâu trong nội địa Ukraine để chặn đánh các cuộc tấn công này. Khi đó, họ sẽ rơi vào tình thế phải chiến đấu trên bầu trời đối phương giống như người Mỹ đã gặp trên bầu trời miền Bắc Việt Nam.
Phần này đã dài nên sẽ tạm thời kết thúc ở đây.
TÓM LƯỢC lại các vấn đề ở phần này như sau:
- Cả hải quân và không quân Nga, dù có được sự đầu tư mạnh mẽ của nhà nước từ năm 2008 nhưng 1 năm chiến tranh vừa qua cho thấy 2 lực lượng này không hề được đầu tư, chuẩn bị cho cuộc chiến ở Ukraine.
- Không quân và hải quân Nga xuất trận yếu cả về số lượng lẫn chất lượng.
- Về cơ bản, không quân Nga đạt được hầu hết các mục tiêu đề ra vào đầu cuộc chiến: tạo ra ưu thế không chế trên không, tiêu diệt nền công nghiệp quốc phòng Ukraine, làm suy yếu lực lượng không quân và phòng không Ukraine. Kết quả này có được không phải là do công cuộc cải tổ không quân của Nga mà chủ yếu là do bộ chỉ huy không quân Nga đã kịp thời khắc phục các điểm yếu và sai lầm của họ, cũng như đề ra các mục tiêu hợp lý và chiến thuật phù hợp.
- Hải quân Nga thể hiện sự yếu kém gần như là toàn diện. Cũng như không quân, họ không được đầu tư đích đáng cho cuộc chiến Ukraine do Moscow dồn các nguồn lực hữu hạn cho các chương trình quá lớn nhắm tới cuộc đối đầu với NATO và việc chiếm lĩnh Bắc Cực. Nếu xét trong hoàn cảnh đối đầu với Mỹ và cân bằng hạt nhân, Moscow đã đúng. Nếu xét về cuộc chiến Ukraine, Moscow thể hiện rõ là họ đã không đầu tư đầy đủ cho hạm đội Biển Đen để tiến hành cuộc chiến này. Các thành tích của hạm đội Biển Đen chủ yếu là nhờ kết quả của việc phát triển vũ khí tên lửa. Hạm đội này, sau những chuệch choạc ban đầu thì đã bắt đầu học được cách thích nghi với những sự thay đổi của cuộc chiến trên biển thời hiện đại. Tuy nhiên, sự thay đổi của hạm đội Biển Đen đến giờ vẫn chỉ đủ để họ không tự làm xấu hổ mình và nước Nga nữa chứ chưa đủ để tạo ra sự thay đổi cho cuộc chiến.
- Chính quyền Ukraine đã đề ra chiến lược phát triển hải quân hợp lý. Đó là việc họ không cố bỏ tiền để đóng lại một hạm đội nhằm đối đầu với hạm đội Biển Đen mà đầu tư vào các vũ khí để hạm đội Biển Đen không thực hiện được nhiệm vụ của nó. Chiến lược của họ đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Các tên lửa chống hạm do Ukraine phát triển và các UAV trên biển, cùng với cách đánh thông minh của hải quân Ukraine đã khiến hạm đội Biển Đen không chỉ mất soái hạm của mình mà buộc phải rút khỏi Sevastopol, căn cứ chính của mình. Tôi cho rằng không có gì là quá đáng khi nói rằng người Ukraine đã thắng người Nga trên biển. Và sự thắng lợi này của Ukraine đáng vỗ tay hơn nữa khi họ thắng không phải bởi sức lực tài chính, kỹ thuật vượt trội đối phương – mà là bằng các nguồn lực tài chính rất hạn chế với tinh thần sáng tạo của các kỹ sư, các binh lính và tướng lĩnh hải quân Ukraine. Tất cả các quốc gia nhỏ có bờ biển, trong nhiều năm tới sẽ cần phải nghiên cứu và học Ukraine cách họ chuẩn bị, tiến hành và chiến thắng cuộc chiến trên biển này.
- Về phòng không và không quân Ukraine, trong một thời gian dài, lực lượng này đã bị bào mòn bởi sự thiếu ngân sách. Yếu và thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, nên không có gì đáng ngạc nhiên đối với việc họ bị thiệt hại nặng trong những ngày đầu của cuộc chiến. Tuy nhiên, người Ukraine với tinh thần chiến đấu của mình, bất chấp các thiệt hại đã thành công trong việc đẩy lực lượng không quân Nga ra khỏi bầu trời của mình. Nếu như có thời gian để đào tạo kịp các phi công và được sự hỗ trợ của NATO thiết bị tạo ra “bom lượn”, không quân Ukraine sẽ gây thiệt hại lớn cho bộ binh Nga và điều đó sẽ buộc không quân Nga phải tiến vào đất Ukraine để không chiến. Tới lúc đó, dù tỷ lệ có là 1 đổi 3 (có lợi cho người Nga) thì rất nhanh chóng người Nga sẽ phải rút lui khỏi bầu trời Ukraine vì dù tỷ lệ có lợi, họ cũng sẽ không thể duy trì được một lực lượng đủ sức để đề phòng NATO. Người Nga sẽ không thua trên bầu trời Ukraine vì hết tên lửa, nhưng họ có thể sẽ thua vì tinh thần chiến đấu của Ukraine và sự hỗ trợ của NATO cho lực lượng phòng không và không quân nước này.
Ở phần sau, phần 7, chúng ta sẽ bàn về lục quân của Nga trong cuộc chiến và những mâu thuẫn của Putin với bộ chỉ huy quân sự của mình.
CẬP NHẬT NGÀY 30/3/2023
Ở phần 6, tôi đã nói về chiến thuật Ukraine có thể dùng để chống không quân Nga là sử dụng bom lượn để tấn công gây thiệt hại cho bộ binh Nga khiến cho máy bay của Nga vào trong đất của mình để không chiến và qua đó tiêu hao họ. Tuy nhiên, có một bạn giấu tên và có nhiều kiến thức về không quân có nói với tôi rằng chiến thuật đó sẽ không xảy ra. Lý do là các máy bay của không quân Nga hiện nay được trang bị hệ thống rada có tầm phát hiện mục tiêu và tên lửa có tầm xa hơn rất nhiều khoảng cách 40-70 km của bom lượn (khoảng cách tối đa tùy thuộc vào từng loại bom được trang bị bộ cánh) của Ukraine. Điều đó có nghĩa là máy bay Nga vẫn có thể tiêu diệt các máy bay mang bom lượn của Ukraine mà vẫn không lọt vào vùng tấn công có hiệu quả của tên lửa phòng không Ukraine.
Vì bạn không cung cấp thông tin hơn về vấn đề này nên tôi không cập nhật vấn đề trên (lý do là tôi cũng không tin các thông số kỹ thuật của các máy bay và tên lửa của Nga được phía Nga công bố). Tuy nhiên, hôm qua, bộ trưởng quốc phòng Ukraine, trong phát biểu của ông về việc Pháp định cung cấp máy bay Mirage 2000 cho Ukraine là loại máy bay này thua xa các loại máy bay của Nga. Mirage 2000, theo ông, có tính năng tương tự Mig-29 là loại máy bay mà Ukraine đang sở hữu. Mig-29 có khả năng phát hiện mục tiêu bằng rada từ khoảng cách 60km và có thể tiêu diệt mục tiêu từ khoảng cách 30km. Trong khi đó, Su-35, theo ông, có khả năng phát hiện mục tiêu từ 200km và có khả năng tiêu diệt mục tiêu từ khoảng cách 140km.
Với thông tin trên từ phía Ukraine thì rõ ràng với các máy bay hiện tại của Ukraine, thì dù có dùng bom lượn thì máy bay của họ vẫn bị Nga tiêu diệt từ xa trong khi máy bay Nga vẫn không bị nguy hiểm bởi tên lửa phòng không Ukraine.
Sau khi đăng phần 6, tôi cũng có nói chuyện với một người bạn Mỹ, là một cựu phi công lái máy bay chiến đấu để hỏi về khả năng chuyển loại hoặc đào tạo phi công cho máy bay F-16. Người bạn tôi, rõ ràng là vì lý do bí mật quân sự nên chỉ nói ngắn gọn là việc chuyển loại từ máy bay hệ Liên Xô/Nga sang hệ máy bay của NATO sẽ không có tỷ lệ thành công cao. Lý do là việc cất và hạ cánh thì các phi công có kinh nghiệm sẽ học được nhanh nhưng để chiến đấu trên không (dog fight) thì các kỹ thuật bay cần “ngấm vào trong máu” của người lái (“your skills should be in your bones, your blood and become a kind of instinct” – “các kinh nghiệm của mày phải ngấm vào trong xương, trong máu và trở thành một thứ bản năng” như lời anh ấy nói). Và vấn đề là với các phi công lái máy bay của Liên Xô/Nga càng giỏi thì các “bản năng lái” của loại máy bay đó sẽ ngấm vào trong họ và gần như không thể thay đổi. Khi tham gia không chiến với tốc độ rất nhanh thì các phi công sẽ chiến đấu theo các kinh nghiệm lái đã trở thành bản năng (chứ không phải bằng các suy nghĩ tính toán). Lúc đó, bản năng lái máy bay Nga sẽ trỗi dậy và sẽ không ăn nhập với chiếc máy bay NATO mà họ đang lái. Đối với việc đào tạo phi công lái F-16, loại máy bay Ukraine đang đề nghị NATO cung cấp, câu trả lời của anh bạn tôi là “để cất và hạ cánh – thời gian tính theo tháng. Để có kinh nghiệm đấu với phi công Nga – thời gian cần tính theo năm”.
Thực tế là cho tới nay, cả Mỹ lẫn Anh đều từ chối cung cấp F-16 cho Ukraine vì lý do không có đủ thời gian đào tạo cho phi công của nước này. Trong khi đó, các máy bay Mig-29 mà Ba Lan và Slovakia cung cấp cho Ukraine thì cũng đều là các loại đã được niêm cất từ lâu, trong đó, cả 13 chiếc Mig-29 của Slovakia đều không trong tình trạng bay được.
Tất cả những điều trên khiến cho ta có thể thấy người Ukraine trong thời gian khá dài tới đây vẫn chưa có cách thức hóa giải chiến thuật ném bom của Nga. Và như vậy, họ sẽ lại phải tiếp tục chiến thuật đặc biệt là hy vọng rằng Nga sẽ cạn tên lửa vì các biện pháp cấm vận.
LƯU Ý VỀ BẢN QUYỀN:
Ài. Bài viết ... font chữ to, rõ, dãn dòng chuẩn ... cho người cận như tôi :)
"Các nhà đánh giá phương Tây đều thống nhất rằng người Nga không có khả năng tự sản xuất chip (thực ra người Mỹ cũng vậy, cả thế giới tự thiết kế rồi nhờ người Đài Loan hoặc Hàn Quốc sản xuất chip cho mình)". Chắc tác giả chưa từng nghe tới Intel (!!!), GlobalFoundries (công ty con của AMD), hay là Micron? Các công ty Mỹ không còn hào hứng làm Chip fabrication đơn giản vì làm Software, Customer Services, và E-commerce nhiều tiền hơn thôi (cứ so sánh vốn hoá của Apple gấp Intel bao nhiêu lần), chứ dàn technical leads của Samsung và TSMC (e.g., Morris Chang) đều từ Mỹ về mà. Nên tìm hiểu kỹ trước khi claim.