CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) – Phần 7
Nếu lục quân Nga là con hổ thì nó đã bị phương Tây “cắt gân” từ năm 1995
Ở phần 6 chúng ta đã bàn về các cải cách của Nga trong hải quân và không quân và đánh giá về hai lực lượng này trong tác chiến tại Ukraine. Nói một cách ngắn gọn là trong khi hạm đội Biển Đen của Nga không đạt được các mục tiêu thì không quân Nga, với khả năng đáp ứng nhanh với tình hình thực tế trên chiến trường đã đạt được hầu hết các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, với việc sử dụng các vũ khí chính xác tầm xa như tên lửa và bom lượn, không quân Nga đang gây thiệt hại cho phía Ukraine nhưng không phải chịu nhiều tổn thất. Ở phần 7 này, chúng ta sẽ xem xét tới việc tác chiến của lục quân Nga.
Cũng tương tự như phương pháp đánh giá hải quân và không quân Nga, chúng ta sẽ xem xét đến sự phát triển, thay đổi của quân đội Nga từ thời Liên bang Xô Viết cho tới nay để hiểu được các hoạt động quân sự trên bộ của Nga trong cả thời gian qua lẫn thời gian sắp tới.
Về lục quân, trong chiến tranh thế giới thứ 2, đơn vị cơ bản trong tác chiến của Hồng quân là sư đoàn. Từ năm 1943 tới 1945 đội hình tác chiến của Hồng quân như sau. Ở cấp cao nhất là phương diện quân. Mỗi phương diện quân sẽ có một vài tập đoàn quân. Dưới tập đoàn quân là các sư đoàn (có những tập đoàn quân có đơn vị cấp dưới là quân đoàn nhưng các trường hợp này không nhiều). Về cơ bản, các tập đoàn quân của Liên Xô chia ra làm 3 loại: tập đoàn quân xe tăng, tập đoàn quân xung kích và tập đoàn quân bộ binh.
Các tập đoàn quân xe tăng trực thuộc sự điều động của Bộ Tổng tham mưu Hồng quân và tùy từng chiến dịch sẽ được phối thuộc quyền chỉ huy cho các phương diện quân. Các tập đoàn quân xe tăng này sẽ được sử dụng cho các mũi thọc sâu sau khi Hồng quân đã chọc thủng phòng tuyến của quân Đức. Để làm được điều này, họ thường có 2 quân đoàn xe tăng với khoảng 300 tới 400 chiếc xe tăng cho mỗi quân đoàn và một hoặc hai sư đoàn bộ binh được cơ giới hóa.
Các tập đoàn quân xung kích sẽ có số lượng xe tăng ít hơn các tập đoàn quân xe tăng nhưng có số lượng bộ binh, pháo binh lớn hơn. Kế đó là các tập đoàn quân bộ binh thông thường.
Về cơ bản, các chiến dịch tấn công của Hồng Quân giai đoạn 1944-1945 thường được tiến hành như sau: (i) pháo binh dội một lượng đạn khủng khiếp lên tuyến 1 của quân thù và bộ binh tiến lên chọc thủng phòng tuyến đã bị phá nát, (ii) sau đó các đơn vị xe tăng sẽ thọc sâu cắt các tuyến hậu cần của quân Đức, (iii) các đơn vị cơ giới, xung kích tiến lên tiếp quản các vị trí mà xe tăng chiếm được để tạo ra các gọng kìm bao vây, (iv) các đơn vị xe tăng lại tiến xa hơn và cắt đứt các đường rút lui của kẻ địch, (v) cuối cùng, các đơn vị bộ binh sẽ tiếp quản để tạo ra một vòng vây kín và (vi) cùng với pháo binh dần dần nghiền nát các đội quân địch trong vòng vây đó. Các đơn vị xe tăng và cơ giới sẽ sử dụng như là lực lượng cơ động để chặn đánh các mũi phá vây từ cả bên trong lẫn bên ngoài vòng vây. Với cách đánh cuốn chiếu như vậy, trong năm 1944-1945, một khi người Nga đã tấn công thì quân Đức sẽ không thể giữ được trận địa. Trong chiến dịch Vistula – Ode, tốc độ tiến quân kỷ lục của Hồng quân là 70km/ngày.
Các bước tấn công nêu trên được lặp đi lặp lại trong mọi chiến dịch nhưng người Đức không thể chặn được nó vì, trong nhiều trường hợp, họ bị các hoạt động nghi binh của Liên Xô đánh lừa về nơi xảy ra tiến công và khi họ biết được thì cũng không thể chống lại được cái công thức tấn công đó. Các nhà nghiên cứu quân sự phương Tây đặt một biệt danh cho Hồng quân vào giai đoạn này là một “chiếc xe lu” (steam roller) – vì khi tiến lên, không một lực nào có thể cản được nó và nó sẽ nghiền nát mọi chướng ngại vật trên đường.
Tuy nhiên, “chiếc xe lu” đó cần một số lượng khổng lồ bộ binh. Họ là người phòng phủ khi bị quân địch tấn công. Họ là người tiến lên sau khi pháo bắn chuẩn bị để đột phá các phòng tuyến đầu tiên của quân Đức cho các tập đoàn quân xe tăng hay cơ giới hóa có cửa mở để thọc sâu. Họ là những đơn vị chịu nhiều tổn thất nhất, làm những nhiệm vụ vô danh, và không được sự quan tâm của dư luận hay các sử gia nhất. Người ta đa phần chỉ nhớ tên các đơn vị xe tăng, cơ giới là đơn vị đầu tiên tiến vào thành phố này, hay tạo ra một khu hợp vây kia. Tuy nhiên, ít ai nhớ được tên các đơn vị bộ binh, người mà công sức và xương máu đã tạo ra 70% chiến thắng. Đối với xã hội, những người lính bộ binh gần như đồng nghĩa với những người lính vô danh.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các cải tổ quân sự, kể cả của khối NATO lẫn của Liên Xô, đều có chung một xu hướng là cắt giảm những “người lính vô danh” này. Điều này là hoàn toàn có thể hiểu được nếu chúng ta nhìn vào các con số thống kê của cấu trúc của quân đội Liên Xô trong giai đoạn 1943-1945.
Ở giai đoạn này, mỗi sư đoàn của Hồng quân có từ 4.000 tới 8.000 người. Một tập đoàn quân có từ 40.000 tới 60.000 người. Và mỗi một phương diện quân có từ 200.000 tới 1.200.000 người. Điều này khiến cho số người tham chiến của Hồng quân là một con số khổng lồ. Vào cuối cuộc chiến, Hồng quân có gần 7,5 triệu người trong lực lượng vũ trang. Riêng phương diện quân Belarussia số 1 của nguyên soái Zhukov (đơn vị chiếm Berlin) có tới 1,2 triệu người. Nếu chúng ta so sánh thì sẽ thấy riêng phương diện quân này đã có số binh lính, xe tăng, pháo và máy bay tương đương với toàn bộ lực lượng vũ trang của Nga hiện nay. Tất nhiên là không có bất kỳ một quốc gia nào có thể duy trì một đội quân lớn như vậy.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, để tập trung vào kinh tế, Liên Xô đã cho giải ngũ một số lượng lớn bộ đội của mình. Để bù vào số lượng bộ binh bị cắt giảm, quân đội Xô Viết tăng tính cơ động cho các đơn vị bộ binh của mình bằng cơ giới hóa các đơn vị này và trang bị một số lượng lớn các xe bọc thép. Bằng cách đó, với số lượng bộ binh ít hơn nhưng vì tính cơ động cao và có hỏa lực bổ trợ của các xe bọc thép thì quân đội Liên Xô vẫn có thể bảo đảm được tính liên tục của mặt trận trong cả tấn công lẫn phòng thủ. Tuy nhiên, sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, nước Nga đối diện với 3 vấn đề chính.
Thứ nhất, nền kinh tế kiệt quệ không thể đảm bảo cho việc duy trì một quân đội với lượng bộ binh cơ giới lớn.
Thứ hai, dân số của Nga chỉ một đêm sau ngày Liên Xô sụp đổ đã giảm từ 290 triệu người xuống còn 148 triệu người (tức là chỉ còn ½). Trong các thập niên tiếp theo, do tình hình kinh tế và xã hội rối loạn, dân số của Nga liên tục suy giảm. Chỉ tới tận năm 2008 thì dân số Nga mới bắt đầu tăng trở lại. Tuy nhiên, tới tận ngày nay, với dân số 146 triệu người (không tính dân số các vùng của Ukraine vừa được sáp nhập vào Nga) thì nước Nga vẫn có dân số thấp hơn mức dân số năm 1991 (148 triệu).
Thứ ba, chất lượng dân số cũng là một vấn đề nghiêm trọng. Trái với suy nghĩ của mọi người về một người đàn ông Nga khỏe như gấu, thì chất lượng dân số nhìn về mặt thống kê của Nga rất có vấn đề. Tuy về thể chất khi sinh ra đàn ông Nga rất khỏe mạnh nhưng tuổi thọ trung bình của đàn ông Nga thuộc loại thấp nhất châu Âu do thói quen sinh hoạt (uống rượu, không tập thể dục). Với dân số suy giảm và chất lượng dân số chưa được cải thiện, quân đội Nga phải thay đổi cách thức chiến tranh của mình. Điều này thể hiện từ cả trong việc thiết kế vũ khí tới chiến thuật và cơ cấu các đơn vị. Chương trình hiện đại hóa quân đội của Nga từ năm 2008 cho thấy rõ họ đang từ bỏ truyền thống của quân đội Liên Xô để đi theo xu thế chung của thế giới là chế tạo các vũ khí phức tạp, tinh vi, với ưu tiên đặt lên hàng đầu là bảo vệ tính mạng người lính và tăng cường độ chính xác của vũ khí.
Một ví dụ điển hình nhất là sự phát triển của các thiết kế liên quan tới xe tăng và thiết giáp của Nga. Trong chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Lạnh, xe tăng và thiết giáp của Liên Xô được chế tạo theo nguyên tắc ưu tiên cho việc dễ chế tạo (để có thể sản xuất số lượng lớn), nhỏ nhẹ (để khó bị bắn trúng), tốc độ cơ động và tốc độ bắn cao, kích cỡ pháo lớn. Vì đặt ưu tiên như vậy nên các xe tăng của Liên Xô và của Nga trước chương trình hiện đại hóa quân đội thường có kích cỡ nhỏ hơn, nhẹ hơn nhưng cơ động hơn xe của NATO. Tuy nhiên, điều đó khiến cho việc bảo vệ tổ lái trở nên kém hơn (giáp xe mỏng hơn, xe sử dụng cơ chế nạp đạn tự động khiến cho đạn không có khoang trữ riêng nên dễ dẫn tới nổ bay tháp pháo khi bị bắn trúng). Tuy nhiên việc ra đời của dòng xe tăng T-14 Armata và các dòng xe bọc thép dùng chung khung gầm vào năm 2014 cho thấy rằng người Nga đã loại bỏ gần như toàn bộ các ưu tiên truyền thống mà chuyển sang ưu tiên bảo vệ sự an toàn của tổ lái và tập trung vào tính chính xác của vũ khí. Điều đáng nói là cuộc chiến Ukraine nổ ra vào đúng giai đoạn mà các xe tăng thế hệ mới T-14 chưa được sản xuất theo quy mô công nghiệp nên trong các đơn vị tham chiến tại Ukraine trong năm đầu tiên, hầu hết vẫn là các xe tăng thời Xô Viết và bản cập nhật sau đó: T-72, T-80 và T-90.
Các cải tổ trong quân đội Nga cũng đi theo hướng tương tự các thay đổi về thiết kế vũ khí. Những người lính Nga bắt đầu được trang bị nhiều thiết bị hiện đại hơn và đôi khi, nếu không để ý vũ khí cá nhân của họ, thì ta có thể lầm một người lính bộ binh Nga với một người lính NATO. Tuy nhiên, để theo kịp tiêu chuẩn trang bị của NATO cho các đơn vị bộ binh thì người Nga không có đủ nguồn lực tài chính. Điều này khiến cho Nga phải tiến hành song song hai biện pháp. Thứ nhất là tăng đầu tư cho ngân sách quốc phòng và thứ hai là cắt giảm nhiều hơn nữa số lượng binh sĩ hiện có. Với nguồn lực đầu tư hữu hạn và số binh sĩ bị cắt giảm mạnh, người Nga bù lại bằng cách chuyên nghiệp hóa lực lượng bộ binh của mình thông qua việc tăng số binh sĩ ký hợp đồng chuyên nghiệp và tăng cường trang bị và huấn luyện cho lực lượng chuyên nghiệp này.
Về cơ cấu đơn vị chiến đấu. Ở phương Tây, với kinh nghiệm chiến đấu tại Việt Nam và vùng Vịnh, Nam Tư và Apghanistan, Mỹ và các nước NATO cũng có những cải cách tương tự như của Nga (bằng cách chuyên nghiệp hóa, “hợp đồng hóa” các binh sỹ). Đơn vị chiến đấu cơ bản của quân đội phương Tây từ cấp sư đoàn chuyển xuống thành lữ đoàn. Nga cũng đi theo xu hướng này nhưng các cải cách có phức tạp hơn. Khác với phương Tây (nơi đại đa số các quốc gia đã bãi bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự và các quân nhân là quân nhân hợp đồng, chuyên nghiệp) thì Nga vẫn duy trì hai chế độ: (i) nghĩa vụ quân sự bắt buộc và (ii) quân nhân hợp đồng. Tương ứng với hai chế độ này, quân đội Nga cũng có hai cơ cấu tổ chức quân sự.
Cơ cấu tổ chức quân sự nổi bật nhất, hay được phương Tây nhắc tới, là cơ cấu các cụm chiến đấu chiến thuật cấp tiểu đoàn (battalion tactical group – “BTG”). Mỗi cụm BTG này sẽ có từ 600 tới 800 người với một lực lượng khoảng 10 xe tăng và 40 xe thiết giáp. Đặc điểm nổi bật nhất của BTG là số lượng bộ binh trong đơn vị là thấp chỉ chiếm khoảng 200 người. Số người còn lại là những người lính lái xe tăng, xe thiết giáp, phòng không, kỹ thuật. Tùy từng nhiệm vụ mà các BTG có thể hoạt động độc lập hoặc phối hợp với nhau trong một cụm quân lớn hơn. Các BTG được chủ yếu sử dụng trong các cuộc tấn công của quân Nga vì tính cơ động cao và hỏa lực mạnh của các xe tăng và thiết giáp của nó.
Điểm mạnh của các BTG là khả năng cơ động rất cao. Với hệ thống thông tin liên lạc tốt thì các BTG vừa có thể phân tán để tấn công nhiều mục tiêu cùng một lúc khiến cho đối phương không xác định được hướng tấn công chủ đạo nhưng lại cũng có thể tập trung nhanh chóng lại thành một quả đấm thép khi cần thiết.
Điểm yếu của các BTG là khả năng phòng thủ các mục tiêu đã chiếm được rất yếu do thiếu bộ binh và BTG cũng không có khả năng cao trong việc đánh công kiên các mục tiêu được gia cố trong các đô thị (do thiếu cả bộ binh lẫn pháo binh).
Vì BTG là lực lượng sẵn sàng chiến đấu cao nhất của quân đội Nga và được trông đợi sẽ thực thi các nhiệm vụ khó nhất nên các binh sỹ của các BTG phần lớn là các binh sỹ hợp đồng chuyên nghiệp. Điều này là cần thiết bởi vì các kỹ năng của binh sỹ trong đội hình BTG cần phải có thời gian dài huấn luyện. Do đó, nếu đưa các binh sỹ được tuyển dụng theo nghĩa vụ quân sự vào thì trình độ các BTG sẽ luôn không ổn định vì khi những tân binh chỉ vừa mới bắt đầu thành thục các kỹ năng chiến đấu thì họ đã ra quân. Theo ước tính của phương Tây thì số binh lính chuyên nghiệp của Nga trong các BTG là khoảng 170 ngàn người.
Để khắc phục vấn đề thiếu bộ binh của các BTG, người Nga dùng một phần giải pháp của quân đội Liên Xô trước đây. Đó là phiên chế các binh sỹ thuộc diện đi nghĩa vụ quân sự vào các đơn vị truyền thống. Trong trường hợp chiến tranh xảy ra, các BTG sẽ là mũi nhọn trong tác chiến và các đơn vị với binh sỹ đi nghĩa vụ quân sự sẽ đóng vai trò như các đơn vị bộ binh thông thường của Hồng quân. Tuy nhiên, về lý thuyết thì như vậy nhưng trên thực tế, các đơn vị này tuy có tên và tổ chức như quân đội thời Liên Xô (sư đoàn, quân đoàn) song nó chỉ là cái bóng của các đơn vị tương tự thời Chiến tranh Lạnh. Nếu so sánh thì có lẽ các đơn vị này sẽ giống các sư đoàn, quân đoàn dự bị của Liên Xô ở các quân khu nội địa với khả năng sẵn sàng chiến đấu thấp và chủ yếu nhằm đào tạo lực lượng dự bị cho các đơn vị tuyến đầu.
Việc tổ chức các đơn vị theo cơ cấu: (i) quân nhân theo hợp đồng và (ii) quân nhân theo nghĩa vụ quân sự sẽ có tác động rất lớn tới chiến cuộc ở Ukraine năm 2022.
Ở phần 4, chúng ta đã thấy vấn đề lớn nhất của quân Nga ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tại các mặt trận Kiev và Kharkov là thiếu bộ binh. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, các BTG đã thọc rất sâu vào hậu phương của Ukraine trên một mặt trận rộng lớn. Tuy nhiên, khi các đơn vị này đã vào sâu thì việc thiếu bộ binh khiến cho các tuyến vận tải hậu cần của quân Nga bị bỏ ngỏ và các đoàn xe tiếp vận bị phục kích. Việc thiếu bộ binh cũng khiến cho các mục tiêu chiếm được bởi các đơn vị xe tăng và thiết giáp thọc sâu buộc phải bị bỏ ngỏ khi các đơn vị này tiến sâu hơn nữa vào trong hậu tuyến của quân Ukraine. Khác với mặt trận phía Nam, ở Kiev và Kharkov, quân Nga không có bất kỳ cuộc hợp vây và tiêu diệt được một đơn vị Ukraine nào cả vì họ không có các đơn vị bộ binh để tạo ra các vòng vây sau khi các đơn vị xe tăng đột phá thành công.
Vậy câu hỏi lớn được đặt ra là tại sao nước Nga với một quân đội có gần 1,2 triệu quân và có truyền thống là một lực lượng lục quân hàng đầu thế giới lại thiếu bộ binh. Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cần phải quay ngược về quá khứ của nước Nga, giai đoạn 1993-1995. Một số động thái diễn ra vào giai đoạn này, gần 20 năm sau, đã dẫn tới những vấn đề nghiêm trọng của Nga tại Ukraine trong giai đoạn đầu của cuộc chiến.
ĐÒN CẮT GÂN HỔ
Sau khi Liên bang Xô Viết giải thể, nền kinh tế và chính trị của Nga rơi vào suy thoái và hỗn loạn. Việc áp dụng các liệu pháp shock để thay đổi nền kinh tế từ quản lý tập trung sang kinh tế thị trường đã dẫn tới lạm phát hàng năm từ 300% tới 800% và nền kinh tế hoàn toàn đình trệ. Trên chính trường thì các đảng phái chính trị mọc ra như nấm sau mưa liên tục tranh giành ảnh hưởng nhưng không có đảng phái nào nắm được đa số phiếu để quyết định trong quốc hội.
Trong bối cảnh kinh tế và chính trị của Nga hỗn loạn như vậy thì chính phủ Hoa Kỳ đã tài trợ cho các cải cách ở Nga và đỉnh điểm là trong năm 1994, tổ chức hỗ trợ phát triển chính thức của Hoa Kỳ (USAID) đã tài trợ cho các chương trình thực hiện tại Nga là 1,3 tỷ đô la Mỹ. Các tài trợ này nhằm cung cấp nguồn tài chính cho các chương trình cải cách tại Nga. Điều đặc biệt là tất cả các chương trình này không gắn tới việc xây dựng cơ sở vật chất cụ thể nào mà luôn nhắm tới việc thay đổi nhận thức của người Nga. Người nhận các tài trợ có thể là chính phủ Nga và rất nhiều các tổ chức, cá nhân Nga mà chính phủ Mỹ quan tâm. Báo cáo của USAID cho biết họ đã đạt được tiến bộ trong nhiều lĩnh vực, tuy nhiên, chúng ta sẽ chỉ quan tâm tới một vài lĩnh vực có liên quan tới câu chuyện Ukraine sau này. Các lĩnh vực đó là: (i) cải cách về dân chủ ở các cấp cơ sở, (ii) tăng cường tính tự do của báo chí, (iii) nâng cao chấp lượng và số lượng các tổ chức phi chính phủ (NGO), và (iv) vấn đề nhân quyền.
Một báo cáo của USAID cho biết họ đã đào tạo được 30.000 người để tham gia các hoạt động đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật cho các tổ chức cá nhân ở Nga (trainer). Các trainer này sẽ phổ cập các nội dung đào tạo cho hàng trăm ngàn hay hàng triệu người khác. Đối với các cải cách về dân chủ, USAID không chỉ hỗ trợ các đảng chính trị ở cấp trung ương mà hỗ trợ họ tới cả các cấp địa phương về cách thức vận động chính trị, tổ chức lực lượng, và phối hợp hành động giữa các cấp bộ đảng địa phương và trung ương. Tất nhiên, các bạn có thể đoán được rằng các đảng đang nắm quyền đa số trong Duma Nga mà không được Hoa Kỳ thích (như đảng Cộng sản Nga hay các đảng dân tộc như đảng LDPR của Vladimir Zhirinovsky) sẽ không phải là đối tượng nhận được tài trợ này.
Tiếp đó, tài trợ được đổ vào việc tạo ra các tổ chức phi chính phủ (NGO) với mục đích được đề ra là các tổ chức đó sẽ góp phần thu thập, phản ánh các nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, các nhóm người chịu thiệt thòi trong xã hội và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp, nhóm người này thông qua việc (i) vận động thay đổi chính sách, pháp luật và (ii) tạo ra các cuộc vận động, phản kháng đối với các hành vi phạm pháp của các cơ quan nhà nước.
Nguồn tài trợ cũng được rót cho các tổ chức nghiên cứu, các trí thức hàng đầu để họ có thể tham gia, nghiên cứu, hướng dẫn cho các tổ chức NGO cũng như góp phần tiếng nói chuyên môn vào quá trình lập pháp.
Cuối cùng, một lượng lớn tài chính cũng được đổ vào việc vận động các chính sách để tư nhân hóa, tự do hóa báo chí.
Toàn bộ hệ thống này sẽ vận hành như sau. Đầu tiên, các tổ chức NGO sẽ xác định các vấn đề phát sinh trong xã hội. Họ sẽ tiến hành làm các khảo sát và đưa ra các con số thống kê dựa trên kết quả khảo sát của mình. Các chuyên gia, các trí thức sẽ phân tích các con số đó và đưa ra các nhận định chuyên môn về vấn đề xã hội và định hướng khắc phục (thường sẽ là sửa đổi các chính sách). Sau đó, báo chí căn cứ vào các thông tin ban đầu này sẽ tiến hành điều tra, làm rõ và đưa ra công luận. Căn cứ trên các nội dung mà các tổ chức NGO thu thập, ý kiến các chuyên gia và các phóng sự điều tra của báo chí, các đảng chính trị sẽ đưa các nội dung, đường hướng chính sách này vào đường lối chính trị của đảng mình và đưa ra tranh luận tại quốc hội. Báo chí, các chuyên gia, các tổ chức NGO sẽ tiếp tục tham gia vào các cuộc vận động của các đảng chính trị ủng hộ sáng kiến của họ với cách thức tổ chức các cuộc biểu tình chống lại các đảng phản đối, điều tra về đời sống riêng tư của các lãnh đạo đảng đối lập và đưa ra báo chí… Cuối cùng, nếu như các hoạt động được phối hợp tốt thì sẽ có những đạo luật được thông qua để giải quyết các vấn đề được nêu ra đó. Tuy nhiên, các NGO lại hoạt động được là nhờ vào nguồn tài trợ. Và vào những năm 1992 tới 2000, khi nền kinh tế Nga chìm trong hỗn loạn và suy thoái, thì nguồn tài trợ chủ yếu tới từ nước ngoài. Do đó, không có gì quá khó hiểu nếu các hoạt động của các NGO chủ yếu hướng vào các vấn đề mà nhà tài trợ quan tâm.
Vào năm 1995, hệ thống này đã làm việc một cách hoàn hảo và đóng một cái chốt vào toàn bộ hệ thống quân sự của Nga sâu tới mức mà tới nay, năm 2023, Moscow vẫn chưa loại bỏ được. Chúng ta cần đặt mình vào hoàn cảnh của tổng thống Yeltsin lúc đó thì mới hiểu được tại sao ông lại đồng ý với cái “chốt” đó trong hệ thống của mình.
Năm 1993 là năm thể hiễn rõ sự hỗn loạn về quyền lực ở nước Nga thời hậu Xô Viết. Trong năm này, quốc hội Nga (được tổ chức dưới mô hình Xô Viết từ thời Liên Xô) đấu tranh với tổng thống (Boris Yeltsin) để giành quyền điều khiển đất nước. Từng có lúc, ở một địa phương tồn tại hai chính quyền (chính quyền với thống đốc thân quốc hội và chính quyền với thống đốc ủng hộ Tổng thống). “Tổng thống ban hành các nghị định như thể không có Quốc hội và Quốc hội đình chỉ các nghị định đó như thể không có Tổng thống” (một bài báo vào tháng 8 năm 1993 viết). Quốc hội cũng ban hành và thực thi chính sách đối ngoại riêng của mình. Ví dụ, vào năm 1993, Quốc hội Nga đã thông qua một nghị quyết trong đó tuyên bố Sevastopol (thủ phủ Crimea) là một thành phố của Nga (trái với quan điểm của Tổng thống Yeltsin khi chấp nhận đó là thành phố của Ukraine). Đỉnh điểm của sự đấu tranh quyền lực là việc Quốc hội Nga ra quyết định phế truất Tổng thống và Tổng thống thì tuyên bố giải tán Quốc hội. Cuộc đối đầu này chỉ chấm dứt khi lực lượng quân đội Nga đã ngả sang phe Tổng thống và bắn pháo vào nhà quốc hội khiến hàng trăm người chết và quốc hội bị giải tán vào tháng 9/1993. Cuộc tấn công vào Nhà Trắng (tòa nhà quốc hội Nga) đã gây ra cái chết của gần 200 người và trở thành một sự kiện mà sau này có thể khiến ông bị truy tố (vào ngày đầu năm mới 2000, ngay sau khi nhận chức quyền tổng thống Nga, sắc lệnh đầu tiên mà Putin ký là sắc lệnh miễn trừ truy cứu mọi trách nhiệm hình sự cho cựu tổng thống Boris Yeltsin).
Tuy nhiên, chỉ 3 tháng sau, vào tháng 12/1993, cuộc bầu cử Duma (quốc hội mới của Nga) có kết quả hoàn toàn ngoài ý muốn của Yeltsin. Hầu hết các ứng cử viên của ông bị đánh bại và đảng cộng sản Nga (đảng cộng sản mới được thành lập lại) và các đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa đã thắng lớn và nắm đa số trong Duma.
Năm 1994 là năm tồi tệ của nền kinh tế Nga với mức GDP suy giảm 12,7% và mức lạm phát là 307%. Vào tháng 12/1994, tổng thống Yeltsin phát động cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ nhất và cuộc chiến trở thành một cuộc chiến bị xã hội phản đối nhiều nhất trong toàn bộ các can thiệp quân sự và chiến tranh của Liên Xô kể từ sau thế chiến thứ 2 tới nay. Có khoảng 800 sỹ quan cao cấp của quân đội Nga đã từ chối mệnh lệnh chiến đấu và bị sa thải. Một trong những lý do khiến cho các sỹ quan này từ chối chiến đấu là kinh tế. Một trong những điều kiện mà thủ tướng Helmut Kohl của Đức đồng ý với tổng bí thư Gorbachev để đổi lấy việc cụm Hồng quân ở Đông Đức rút khỏi nước này là Đức sẽ tài trợ cho việc xây dựng nhà ở cho các sỹ quan và trợ cấp cho họ tìm công việc mới sau khi xuất ngũ. Đó là lý do mà cụm quân có khả năng tác chiến tốt nhất của Liên Xô sau khi rút từ Đông Đức về, về căn bản, đã biến mất. Các binh lính nghĩa vụ được giải ngũ, vũ khí được đưa về cất giữ ở phía Đông dải Ural theo thỏa thuận cắt giảm vũ khí thông thường ở châu Âu mà Liên Xô đã ký và các sỹ quan cao cấp thì được cấp nhà mới (do nhà nước xây dựng mới) hoặc cấp tiền để mua nhà ở quê hương họ và họ sử dụng tiền được cấp để chuyển ngành.
USAID cũng có một chương trình tài trợ tương tự vào năm 1994 cho các sỹ quan cao cấp của lực lượng quân đội Liên Xô (mà Nga được kế thừa) đóng tại 3 nước cộng hòa vùng Baltic. Cụm quân Liên Xô tại Baltic cũng là cụm quân mạnh thứ ba (chỉ sau cụm quân đóng tại Đông Đức và Ukraine) và căn cứ chính của hạm đội Baltic là ở thành phố Tallinn, thủ đô của Estonia, trong suốt cuộc chiến tranh lạnh. Sau khi ba nước vùng Baltic đã tuyên bố độc lập vào năm 1990 thì quân đội Liên Xô (và sau đó là quân đội Nga) vẫn đóng trên các quốc gia này. Vì sự có mặt của quân đội Nga nên cả ba nước này đã không thành lập quân đội riêng để tránh xảy ra xung đột vũ trang (như đã xảy ra ở Gruzia với vùng Abkhazia và Nam Ossetia, hay ở Moldova với vùng Transnistria). Một trong các lý do mà Nga không rút quân là vì an ninh và họ không có các cơ sở quân sự trong nội địa để cho các đơn vị này rút về đồn trú (cũng như không có tiền để giải ngũ họ). Vì lý do này USAID đã tài trợ cho việc xây dựng và mua hàng ngàn căn nhà cho các sỹ quan Nga rút từ Baltic về. Một trong các điều kiện là nhà sẽ được xây dựng hoặc mua cho các sỹ quan tại các thành phố họ chọn lựa để định cư. Điều này cũng có nghĩa là các sỹ quan sẽ có 2 lựa chọn: tiếp tục phục vụ trong quân đội và mua nhà tại nơi gần căn cứ (và nếu đơn vị di chuyển thì căn nhà đó sẽ phải bỏ không) hoặc rời khỏi quân đội và mua nhà ở quê hương để bắt đầu đời sống dân sự. Trong bối cảnh kinh tế với mức lạm phát 500-800%/năm mà lương của quân đội không được điều chỉnh, tuyệt đại đa số đã chọn nhà và ra quân. Đó là cách mà hai cụm quân có năng lực tác chiến hàng đầu của Liên Xô đã biến mất (về trình độ giữa quân đội Nga và quân đội Ukraine vào những năm 1994-1995, trong đó, tôi đánh giá là quân đội Ukraine lúc đó có trình độ cao hơn quân đội Nga, mời các bạn xem phần 1 của serie bài này.)
Khi cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ nhất xảy ra, đã có sự so sánh trong hàng ngũ các sỹ quan của Nga. Các sỹ quan của các quân khu nội địa Nga, những người được điều ra chiến trường để tấn công vào người dân của mình (trong khi vừa năm trước đó, họ đã phải bắn vào nhà quốc hội tại Moscow) với mức lương không thay đổi trong khi lạm phát phi mã và xã hội đang sụp đổ. Trong khi đó, các đồng ngũ của họ, đóng ở Đông Đức và Baltic, ngay từ thời Xô Viết đã hưởng những ưu đãi hơn và khi chiến tranh nổ ra thì họ có lựa chọn là rời khỏi quân ngũ với nhà được cấp mới. Đó chính là lý do mà có rất nhiều sỹ quan cao cấp từ chối thực hiện nhiệm vụ chiến đấu.
Tiếp đó, cuộc chiến tại Chechnya được điều hành một cách kém cỏi khiến cho thiệt hại của quân Nga trong nửa năm 1995 lên tới gần 7.000 người bị chết và 15.000 người bị thương (con số thiệt hại tương đương 5 năm đánh nhau ở Apghanistan) khiến cho sự bất mãn trong xã hội tăng cao. Việc bất mãn này được tăng âm rất mạnh bởi các tổ chức phi chính phủ, các nhân sỹ, và báo chí, truyền thông. Trong cuộc chiến vùng Vịnh trước đó 4 năm, người Mỹ, rút kinh nghiệm từ cuộc chiến Việt Nam, đã không cho phép báo chí, truyền thông tiếp cận trực tiếp chiến trường mà chỉ được tường thuật lại các nội dung được công bố bởi bộ quốc phòng Mỹ. Tuy nhiên, ở Chechnya, báo chí Nga, với tinh thần tự do phương Tây mới được thổi bùng lên, đã tường thuật và thậm chí nói quá lên mọi khía cạnh khốc liệt của cuộc chiến. Điều này dẫn tới sự bất mãn trong xã hội đối với tổng thống Yeltsin tăng cao.
Nói một cách ngắn gọn là vào giai đoạn 1993-1995, tổng thống Yeltsin có hoàn cảnh khó khăn tới mức ngặt nghoèo trên mọi lĩnh vực. Về kinh tế, nền kinh tế Nga rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng và trở nên phá sản khi cuộc chiến Chechnya nổ ra. Về quân sự, Yeltsin có nguy cơ mất sự ủng hộ của quân đội (mà nhờ đó vào tháng 9/1993, ông mới giải tán được quốc hội) và cuộc chiến Chechnya không biết bao giờ chấm dứt. Về ủng hộ của người dân thì vào năm 1995, mọi cuộc thăm dò dư luận về bầu cử tổng thống Nga năm 1996 cho thấy ông thua xa đối thủ Gennady Zyuganov, lãnh tụ của đảng cộng sản Nga. Về chính trị, Hạ viện Nga (Duma) nằm trong tay các thế lực đối địch ông (đảng cộng sản Nga và các đảng dân tộc chủ nghĩa). Bản thân đảng Nước Nga là Nhà của Chúng ta (cơ sở chính trị của Yeltsin) cũng bắt đầu xem xét xem họ sẽ chọn ứng cử viên nào đại diện cho mình trong cuộc bầu cử tới: Chernomyrdin (thủ tướng) hay Yeltsin (đương kim tổng thống).
(Hình H1 – kết quả thăm dò dư luận về các đảng phái tại Nga vào thời điểm tháng 12-1995 tới tháng 1-1996, đảng của Boris Yeltsin đứng thứ 2 sau đảng cộng sản với mức tín nhiệm là 10,1%, tương đương ½ mức tín nhiệm của đảng cộng sản).
Để có thể thắng được trong cuộc bầu cử năm 1996, Boris Yeltsin đã cầu viện đồng minh của mình là Hoa Kỳ (đến nay chúng ta đã biết rằng chính các cán bộ sứ quán Hoa Kỳ là những người đã giúp cho Yeltsin tổ chức hệ thống thông tin liên lạc sau khi ông bị quân đội đảo chính bao vây tòa nhà Xô-viết Liên bang Nga trong cuộc đảo chính không thành năm 1991. Và nhờ có hệ thống liên lạc này ông mới thuyết phục được các lực lượng trong quân đội và bộ nội vụ ủng hộ ông, chống lại đảo chính) (hình 2, Boris Yeltsin đứng trên một chiếc xe tăng của quân đảo chính sau khi chiếc xe này đã chuyển phe sang ủng hộ ông, phát biểu với người dân ủng hộ).
Trong năm 1994, IMF đã cấp các khoản vay cho chính phủ Nga cao gấp 3 lần năm 1993. Các tổ chức tài chính quốc tế dưới ảnh hưởng của Mỹ cũng giải ngân nhiều khoản vay lớn cho chính phủ để trả lương hưu và trợ cấp xã hội. Yeltsin cũng đã thành công trong việc liên minh với đảng Dân chủ Tự do Nga (theo đường lối dân tộc chủ nghĩa) của Zhirinovsky, để thay đổi hiến pháp Nga. Nhờ có thay đổi này mà Tổng thống Nga có quyền hạn được mở rộng rất nhiều và chấm dứt được tình trạng đối đầu không lối thoát về quyền lực với quốc hội.
Tuy nhiên, sự liên minh này lại khiến cho Yeltsin gặp vấn đề lớn với đồng minh của mình là Mỹ và nó khiến cho ông có những thỏa hiệp mà nước Nga phải chịu hậu quả 20 năm sau, trong cuộc chiến ở Ukraine.
Vào năm 1995, khi chỉ số ủng hộ thăm dò của đảng Dân chủ Tự do Nga của ông ngang hàng với đảng của tổng thống Yeltsin, Zhirinovsky đã viết một cuốn sách nhỏ mang tên “Cuộc Nam tiến cuối cùng” (The Last Break Southward). Điều khiến cho cuốn sách này trở nên đặc biệt đáng lo ngại với phương Tây là nó được viết với một phong cách phảng phất khiến người ta nhớ tới cuốn “Mein Kampf” của Adolf Hitler. Việc tư tưởng dân tộc Nga trỗi dậy mạnh mẽ sau 70 năm bị nhà nước Xô Viết kìm nén là điều dễ hiểu. Có nhiều nhà tư tưởng, triết gia Nga đã đặt vấn đề về tính dân tộc Nga như là nền tảng của tư tưởng, đạo đức xã hội Nga (sau khi nền tảng tư tưởng cộng sản bị mất đi sau khi Liên Xô giải thể). Tuy nhiên, không có nhà tư tưởng nào cụ thể hóa vấn đề dân tộc Nga thành phạm vi ảnh hưởng tính trên lãnh thổ của các quốc gia khác, các dân tộc khác như Zhirinovsky.
Trong cuốn sách này, Zhirinovsky cho rằng các cường quốc đều sẽ có vùng ảnh hưởng riêng của mình. Canada và Mỹ sẽ lấy châu Mỹ Latinh; Trung Quốc và Nhật sẽ chia nhau ảnh hưởng ở châu Á; châu Âu sẽ chiếm ảnh hưởng ở châu Phi. Và nước Nga, theo ông, sẽ phải chiếm ảnh hưởng ở Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Apghanistan. Ông cũng cho rằng 3 nước Baltic và Phần Lan sẽ phải trở lại thành các tỉnh của nước Nga như thời Sa Hoàng. Ông nói rằng hãy để cho những người lính Nga mặc quân phục mùa hè quanh năm, rửa chân trần trong nước biển ấm của Ấn Độ dương và tiếng chuông nhà thờ Chính Thống giáo vang vọng khắp phía Đông Địa Trung Hải tới bờ Ấn Độ dương.
Hai đối thủ chính của Yeltsin trong cuộc bầu cử tổng thống Nga năm 1996 là Zyuganov và Zhirinovsky. Để thắng Zyuganov, Yeltsin nêu cao các giá trị Chính Thống giáo (trong khi những người Cộng sản và Chính Thống giáo có truyền thống không thích nhau). Cần lưu ý là sau khi Liên Xô sụp đổ thì đức tin Chính Thống giáo trỗi dậy một cách mạnh mẽ với số người theo đạo và nhà thờ tăng vọt. Ngoài ra, Yeltsin có sự hỗ trợ về mặt kinh tế của phương Tây để chi trả các khoản lương hưu và trợ cấp xã hội trong thời gian ngắn để giành phiếu của cử tri – đánh vào thứ mà Zyuganov không có. Nói ngắn gọn là Yeltsin sẽ thắng những người cộng sản bằng cách đề cao đức tin chính thống giáo để đối lập với chủ nghĩa vô thần và sử dụng các lợi ích kinh tế để thu hút ủng hộ.
Với Zhirinovsky thì vấn đề không đơn giản như vậy. Đảng của Zhirinovsky là đảng phái có số ghế đứng thứ 3 trong Duma và nếu đảng này ngả về phe đảng Cộng sản của Zyuganov thì Yeltsin sẽ lại có một Duma chống đối mình hoàn toàn như năm 1993-1994. Ngoài ra, không thể dùng niềm tin tôn giáo để chống Zhirinovsky vì ông này không chỉ đề cao Chính Thống giáo mà còn muốn nó lan tỏa tới các vùng từng là chính thống giáo của đế quốc Byzantine trước kia.
Yeltsin đứng giữa hai làn đạn: (i) một bên là Zhirinovsky để khống chế đảng Cộng sản và (ii) một bên là Mỹ. Và cả 2 bên này đều công khai việc có ác cảm với nhau. Những gì diễn ra sau đó, chúng ta không biết. Tuy nhiên, chúng ta biết các sự kiện, kết quả của các sự kiện này và ai là người hưởng lợi.
Đầu tiên, các tổ chức NGO ở Nga phát động một phong trào phản kháng đối với cuộc chiến tranh ở Chechnya. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu vì người dân ai cũng mong muốn hòa bình và cuộc chiến Chechnya được điều hành rất tệ trên mọi phương diện. Tuy nhiên, lịch sử cũng cho thấy, các cuộc chiến tranh ít khi chấm dứt chỉ bởi các cuộc biểu tình. Một trong các thủ thuật để đạt được mục tiêu thông qua biểu tình là chọn một mục đích vừa phải, không mất mặt chính quyền làm mục đích chính. Sau đó biểu tình đòi một thứ cao hơn rất nhiều, mất mặt cho chính quyền rất nhiều. Khi cuộc đối đầu giữa chính quyền và người biểu tình đã lên tới đỉnh điểm bùng nổ thì hòa giải và yêu cầu chính quyền thực hiện mục tiêu thực của bên biểu tình. Nói nôm na là hét giá rất cao để rồi đàm phán chán chê thì sẽ bán ở giá mà mình đã định trước.
Vào năm 1995, tình hình diễn ra đúng như vậy. Đầu tiên là các phong trào của các NGO, sau đó các nhân sỹ, trí thức Nga vào cuộc, báo chí và truyền thông tường thuật tỷ mỉ, tường tận mọi hoạt động phản kháng; các đảng chính trị nhỏ cũng tham gia vào phong trào để tranh thủ thời cơ quảng bá tên tuổi của mình. Các cuộc phản kháng trở nên ngày càng sâu rộng và dẫn tới một “điểm chết” (dead lock) cho cả hai bên. Điểm chết đó là trong gần 200 thực thể chính quyền tạo nên Liên bang Nga thì chỉ còn duy nhất Chechnya là không chịu ký vào hiệp ước liên bang và vẫn cương quyết đòi độc lập và sự việc đã dẫn tới cuộc chiến tranh. Nếu Nga dừng cuộc chiến thì các thực thể còn lại sẽ đặt vấn đề ký lại thỏa thuận liên bang và đó có nghĩa là khởi đầu của sự sụp đổ của liên bang Nga. Tất cả các đảng lớn ở Nga (từ cộng sản tới dân tộc chủ nghĩa) đều hiểu điều đó. Tuy nhiên, nếu họ chống lại một phong trào xã hội đã lan rộng (và nhân danh một mục tiêu cao quý), được lãnh đạo bởi các NGO, báo chí, các nhân sỹ (KOLs), các đảng chính trị nhỏ thì các đảng lớn sẽ mất số phiếu lớn trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1996. Và đó chính là “điểm chết” của cuộc đối đầu.
Khi cuộc đối đầu giữa phong trào chống chiến tranh và chính quyền đã đạt tới điểm chết thì phong trào này đưa ra một mục tiêu “dễ chịu” hơn rất nhiều cho chính quyền và các đảng lớn. Đó là họ cũng hiểu rằng sự tồn tại của liên bang Nga là điều kiện tiên quyết nên họ không mù quáng đòi kết thúc cuộc chiến ngay mà là cần một giải pháp chính trị cho cuộc chiến đó. Tiếp đó, phong trào đòi hỏi những quyền nhân quyền tối thiểu phải được đảm bảo, và cụ thể ở đây là những người lính nghĩa vụ phải được bảo vệ khỏi bị biến thành mồi đỡ đạn ca-nông cho chính quyền. Với yêu cầu mới này thì tất cả các đảng lớn đều đồng ý và một đạo luật được ra đời để đảm bảo cho sự thỏa hiệp này. Đó là Luật Liên bang số 93, ngày 23 tháng 6 năm 1995 mang tên “Luật về thủ tục để sử dụng các nhân lực quân sự và dân sự cho các hoạt động gìn giữ và khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế”. Nói ngắn gọn là luật này cấm việc sử dụng các binh sĩ nghĩa vụ quân sự vào mọi hoạt động thực hiện bên ngoài lãnh thổ Liên bang Nga dưới mọi trường hợp. Các binh sĩ nghĩa vụ quân sự thậm chí không được tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế.
Đây chính là cái chốt đóng vào hệ thống quốc phòng của Nga.
Đến nay, chúng ta không có một bằng chứng nào về việc ai đã tiến hành toàn bộ các hoạt động trên. Tuy nhiên, nếu nhìn vào ai là người hưởng lợi thì chúng ta sẽ thấy như sau:
Thứ nhất, người hưởng lợi trước hết và lâu dài là những binh sỹ nghĩa vụ quân sự của Nga và gia đình họ. Đạo luật này đảm bảo cho họ không bị chính quyền điều đi chiến đấu ở một nơi xa lạ ngoài nước Nga vì bất kỳ lý do gì (từ tư tưởng tới an ninh).
Thứ hai, đó là tổng thống Boris Yeltsin. Ông là người đã mở ra một cuộc chiến tranh mất lòng dân nhất kể từ sau thế chiến thứ 2 ở nước Nga. Tuy nhiên, việc ban hành đạo luật trên cùng với các viện trợ kinh tế được bơm vào nền kinh tế đang tàn lụi của Nga đã khiến cho ông khôi phục lại uy tín trong một thời gian ngắn và trúng cử tổng thống nhiệm kỳ 2. Đồng thời, ông tránh được việc đối đầu với đối thủ chính trị mà mình đang liên minh (Zhirinovsky) và vẫn hài lòng đồng minh Mỹ của mình bằng cách không phản chống lại các tư tưởng dân tộc bá quyền của Zhirinovsky nhưng khiến nó không thể thực hiện được bằng cách không cho binh sỹ nghĩa vụ chiến đấu ở ngoài nước Nga.
Thứ ba, phương Tây, bằng một loạt các vận động khéo léo, họ đã tạo ra một hệ thống ảnh hưởng tới dư luận xã hội Nga và từ đó thay đổi hệ thống luật pháp. Bằng việc tài trợ cho tái hòa nhập cho các sỹ quan rút từ Đức và Baltic về, họ đã giải tán hai cụm quân thiện chiến hàng đầu của Liên Xô mà không tốn một viên đạn và gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với tinh thần của các sỹ quan Nga còn đang phục vụ. Bằng việc lôi kéo Ukraine ngả theo mình, họ có được một quân đội xuất thân từ cụm quân mạnh thứ 2 của quân đội Liên Xô (chi tiết hơn xin xem CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) (substack.com)).
Với ưu thế hơn hẳn về không quân và hải quân, thì với luật mới ban hành, phương Tây đã loại trừ được thế mạnh mà Liên Xô đã duy trì suốt cuộc Chiến tranh Lạnh – đó là lực lượng lục quân. Chính vì quy định này (và các yếu tố về kinh tế và dân số khác) mà nước Nga buộc phải cải tổ lực lượng lục quân theo hướng tổ chức các BTG như tôi đã nói ở trên. Nói một cách hình ảnh, quân đội Nga là một con hổ bị cắt gân. Việc cắt gân đó chính là việc có quy định cấm sử dụng binh lính nghĩa vụ ở ngoài lãnh thổ Nga.
Nếu như các chương trình cải tổ của Nga do phương Tây “hướng dẫn” đã khiến cho nước Nga rơi vào một thập kỷ hỗn loạn và suy thoái về kinh tế thì cái đòn “cắt gân hổ” này khiến cho quân đội Nga sẽ phải hoạt động trong một khuôn khổ của một quốc gia nhỏ chứ không phải như là một cường quốc quân sự.
HỆ QUẢ CỦA ĐÒN CẮT GÂN HỔ
Ở phần này, chúng ta xem xét tiếp quy định về cấm sử dụng lính nghĩa vụ Nga ở lãnh thổ nước ngoài sẽ tác động ra sao tới cuộc chiến Ukraine.
Ở trong bài
chúng ta đã thấy rằng các cuộc can thiệp quân sự của Liên Xô vào Hungary (1956), Tiệp Khắc (1968), Ba Lan (1980) thành công nhanh chóng vì số lượng quân đội Xô Viết được huy động rất lớn, tiến cùng một lúc từ nhiều hướng vào lãnh thổ của các nước bị can thiệp. Số lượng binh lính và vũ khí được huy động lớn tới mức đủ bóp nghẹt ý chí kháng cự của quân đội các nước này (và nếu có phải nổ súng thì chiến sự cũng chấm dứt rất nhanh chóng).
Nếu các bạn ngại đọc bài trên thì đoạn tôi định nói được trích ở dưới đây:
“Chúng ta sẽ so sánh các điểm giống và khác nhau giữa chiến dịch tháng 2/2022 của Putin với các chiến dịch của Liên Xô và Mỹ trước đó. Vào năm 1956 tại Hungary, Liên Xô đã có sẵn 5 sư đoàn đầy đủ quân số chiến đấu ngay trên đất Hungary và tại các điểm trọng yếu nhất. Rất nhanh sau đó, số lượng này tăng lên 17 sư đoàn thiện chiến nhất của Hồng quân. Ngay sau khi lệnh can thiệp được ban ra, các đơn vị này dưới sự chỉ đạo của Zhukov đã tiến hành giải giáp các đơn vị Hungary và thực tế đã tấn công bằng vũ khí hạng nặng vào các đơn vị này khi có phản ứng. Quân đội Liên Xô cũng không chùn tay khi sử dụng vũ lực với các lực lượng dân sự nổi dậy của Hungary khi các lực lượng này nắm được vũ khí do quân đội Hungary bỏ lại. Với các yếu tố trên, cuộc can thiệp lật đổ đã nhanh chóng thành công dù rằng có đổ máu của cả quân đội lẫn dân thường Hungary. Quân đội Liên Xô rút về các vị trí của mình sau khi lực lượng chính trị thân Liên Xô tại Hungary lên nắm quyền.
Ở Tiệp Khắc năm 1968, khối Warsaw đã sử dụng 500 ngàn quân cùng lúc tiến vào Tiệp Khắc từ mọi hướng. Điều này đã làm tê liệt sự phản ứng của quân đội Tiệp Khắc khi các sỹ quan cao cấp của quân đội từ chối ra lệnh chống lại quân đội khối Warsaw.”
Ở Ukraine việc thiếu bộ binh đã khiến cho các đơn vị của Nga ở mặt trận Kiev và Kharkov không tạo ra một chiến tuyến liên tục và toàn bộ tuyến hậu cần bị bộc lộ cho các cuộc phục kích của Ukraine. Tuy nhiên, sự thiếu bộ binh dẫn tới mất thời cơ lớn thể hiện rõ nhất ở trận đánh quanh thành phố Mykolayev ở phía Nam. Như đã nêu ở phần 4
thì binh lực của Nga tập trung ở phía Đông và Nam tới 77% lực lượng của mình; trong đó, cụm quân ở Crimea là lớn nhất và tinh nhuệ nhất. Cụm quân này đã nhanh chóng đánh thủng tuyến phòng ngự của Ukraine ngăn đất liền tỉnh Kherson với Crimea và sau đó phát triển lên hai hướng là Kherson và Melitopol. Vào cuối giờ chiều ngày 26/2/2022, chỉ hai ngày sau khi nổ ra cuộc chiến, một đơn vị xe tăng Nga đã vòng qua thành phố Kherson và tiến vào Mykolayev. Vào lúc này, ở thành phố không có các đơn vị quân đội lớn nào của Ukraine. Do đó, thị trưởng thành phố, Vitaly Kim, người chỉ được báo trước về việc xe tăng Nga đột phá thành công từ Kherson có 5 giờ đồng hồ, đã tung tất cả những gì ông có trong tay vào việc bảo vệ thành phố. Các lực lượng chắp vá từ quân đội tới cảnh sát, phòng vệ lãnh thổ, lẫn người dân tình nguyện của Ukraine đã không ngăn cản được đội xe tăng tiến xuyên qua thành phố. Tuy nhiên, sau khi xe tăng Nga vượt qua, họ bắt đầu xây dựng các chướng ngại vật trên đường để chặn các đội quân đi sau. Sau khi các đơn vị xe tăng đã vượt qua thành phố thì các đơn vị Nga tiến theo sau bắt đầu bị chặn đánh. Và vì các lực lượng Nga này đều có số lượng nhỏ nên họ không chiếm được bất cứ cứ điểm quan trọng nào và cũng không thông được đường tới các đơn vị đã vượt qua trước đó. Quân và dân thành Mykolayev cuối cùng đã bảo vệ được thành phố tới khi quân chính quy Ukraine tới cứu viện. Các lực lượng thọc sâu của Nga, hoặc bị tiêu diệt hoặc phải rút lui về Kherson.
Nếu chúng ta nhìn vào hình H3 thì sẽ thấy rằng nếu Nga chiếm được Mykolayev trong hành tiến và có lực lượng để tổ chức phòng ngự trước khi quân cứu viện Ukraine tới thì việc chiếm Odessa sau này sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Mykolayev là một thành phố có tuyến đường huyết mạch nối với Odessa và nằm trên sông Buh ở đoạn dòng sông rộng nhất. Do đó, việc chiếm được thành phố và các cây cầu sẽ giúp cho việc tấn công Odessa tiết kiệm rất nhiều xương máu so với trường hợp nếu như quân Nga sau này phải vượt sông dưới hỏa lực địch. Tuy nhiên người Nga đã bỏ lỡ cơ hội đáng giá ngàn vàng này vì không có đủ lực lượng bộ binh. Lý do là vì các lực lượng tham chiến ở Ukraine là lính chuyên nghiệp và số lượng lính chuyên nghiệp thì không đủ cho quy mô của toàn tuyến mặt trận. Việc bỏ mất cơ hội chiếm Mykolayev (và sau đó là Odessa) trong giai đoạn đầu của cuộc chiến “đau” cho người Nga tới mức là tới tháng 9/2022, tức là ngay cả sau khi đã phải bỏ một vùng rộng lớn ở Nam Kharkov khi người Ukraine phản công ở đây, người Nga vẫn duy trì cụm quân lớn nhất của mình ở khu vực Kherson.
Khi nhìn vào hình H4 – hình thái bố trí lực lượng của hai bên vào tháng 9/2022, thì chúng ta thấy rằng ngay cả sau khi thua trận và rút khỏi Nam Kharkov, lực lượng của Nga ở khu vực này vẫn vô cùng ít. Trong khi đó, ở trên toàn tuyến chiến đấu còn lại thì người Nga chỉ giữ các lực lượng nhỏ phòng thủ ở tuyến hai ở Melitopol và đường dẫn tới Mariupol (các điểm khoanh tròn màu xanh dương). Trong khi đó, ở Kherson, trong một khu vực nhỏ hẹp, người Nga bố trí rất nhiều đơn vị, với 2-3 lớp phòng ngự - và người Ukraine cũng giữ 2 đơn vị lớn của mình ở ngay Mykolayev như là lực lượng dự bị chiến lược ở phía Nam. Nhìn vào hình thái này, chúng ta sẽ thấy sự nuối tiếc của bộ chỉ huy quân Nga tại Ukraine với việc không chiếm được Mykolayev trong tuần đầu tiên của chiến tranh. Và sự thất bại đó là do họ không có đủ quân số cần thiết.
Sau khi chúng ta thấy những hậu quả của việc thiếu quân số cho cuộc chiến, (mà lý do là Nga, mặc dù có 1,2 triệu quân, nhưng đã không thể đưa hơn con số 170 ngàn quân nhân chuyên nghiệp sang Ukraine vì quy định của Luật Liên bang số 93 năm 1995 cấm đưa quân nhân nghĩa vụ sang chiến đấu ở nước ngoài) thì Moscow có nhìn thấy trước vấn đề này không và họ đã làm gì để khắc phục nó.
Xét theo các sự kiện thì ta có thể kết luận rằng Putin rất hiểu sự cản trở của Luật Liên bang số 93 và họ đang cố gắng từng bước loại trừ nó. Là một cán bộ tình báo KGB và tận mắt nhìn thấy sự sụp đổ của Đông Đức, cũng như nghiên cứu cách thức thực hiện các cuộc “cách mạng màu” sau đó, Putin hiểu rất rõ rằng các tổ chức phi chính phủ là cách thức mà nước ngoài có thể can thiệt vào xã hội Nga về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc thâm nhập các ý tưởng thông qua các tổ chức NGO sẽ càng thuận lợi hơn vì tôn chỉ, mục đích của các tổ chức này luôn hướng tới các mục đích tốt đẹp và người dân, trong bối cảnh thường xuyên không hài lòng với chính phủ sẽ luôn có cái nhìn ưu ái, bảo vệ với các tổ chức NGO nếu chính phủ động tới họ. Hơn nữa, ngay 1 năm sau khi Luật Liên bang số 93 ra đời, năm 1996, tổng thống Yeltsin, người đã “mang nợ” các tổ chức NGO, đã ký Luật Liên bang số 7 về các tổ chức NGO. Luật này, được các chuyên gia của phương Tây giúp đỡ soạn thảo và được các tổ chức NGO tại Nga tham gia góp ý kiến rộng rãi và được coi là một trong các luật “tiên tiến và cởi mở” nhất về NGO lúc ban hành. Trong 1 thập niên từ 2000 tới 2010, là thời kỳ mà tổng thống Nga Putin hy vọng rằng quốc gia của ông sẽ hòa nhập thực sự và trở thành một phần của phương Tây nên tất cả các đạo luật mang giá trị “dân chủ phổ quát” được ban hành dưới thời Yeltsin (và được cố vấn soạn thảo bởi các chuyên gia phương Tây) đều được tiếp tục thực hiện mà không sửa đổi. Đây là thời kỳ mà nước Nga cố gắng mọi cách để trở thành người bạn của phương Tây, thậm chí, ông Putin còn đề nghị NATO xem xét khả năng Nga gia nhập khối này.
Tuy nhiên, việc phương Tây ngày càng can thiệp vào đời sống chính trị của các nước cựu thành viên Liên Xô và nổi bật là Ukraine và Georgia (Gruzia), đặc biệt là việc Georgia tiến hành tấn công Nam Ossetia và Abkhazia năm 2008, đã khiến cho Putin trở nên quyết tâm về vấn đề NGO. Chỉ 2 tháng sau khi trở lại vai trò tổng thống Nga trong nhiệm kỳ thứ 3 năm 2012, vào tháng 7/2012, Putin đã ký Luật Liên bang số 121 về “sửa đổi các đạo luật của Liên bang Nga liên quan tới các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ thực hiện các chức năng của các đại diện cho nước ngoài”. Putin biết rõ rằng một tổ chức phi chính phủ hành động đúng đắn theo tôn chỉ sẽ khác một tổ chức NGO hành động vì lợi ích nước ngoài ở chỗ tổ chức sau sẽ có các hoạt động tập trung vào các vấn đề có lợi cho quốc gia, tổ chức nước ngoài cung cấp tài chính. Putin kết hợp việc phòng chống rửa tiền quốc tế, một trong những quy định quốc tế mà Nga công nhận và thực hiện với việc kiểm soát các NGO. Theo đó, để chống việc rửa tiền, các NGO nhận tiền tài trợ từ nước ngoài buộc phải đăng ký với nhà nước Nga về nguồn gốc, số tiền nhận tài trợ từ nước ngoài và các hoạt động sử dụng tài trợ đó.
Đạo luật này của Nga bị phương Tây phản đối vì coi nó là phản dân chủ và phục vụ độc tài. Tuy nhiên, hiện nay các nước phương Tây cũng có các đạo luật tương tự và việc áp dụng không chỉ bắt buộc đối với các tổ chức NGO mà là với cả các tổ chức cá nhân trong nước. Nếu như bạn xem kênh Russia Today trên Youtube (trước khi kênh này bị YouTube đóng) thì các bạn sẽ thấy một dòng chữ ghi rõ là Russia Today là một pháp nhân nhận tài trợ một phần hoặc toàn bộ của chính phủ Nga. Đây chính là việc YouTube, mặc dù không có mối liên hệ gì với Nga, nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thông báo cho người xem của mình về việc một tổ chức nhận tài trợ từ chính phủ Nga.
Sau khi Luật Liên bang số 121 năm 1996 được ban hành thì các hoạt động của NGO nhận tài trợ từ nước ngoài không còn có hiệu quả như thời họ vận động cho ban hành luật cấm sử dụng binh lính nghĩa vụ ở ngoài Nga nữa.
Tuy nhiên, Putin biết rằng nếu đơn thuần bãi bỏ Luật Liên bang số 93 năm 1995 thì ông sẽ đụng phải sự chống đối của đại đa số nhân dân. Chính vì vậy, vào năm 2016, ông cho thành lập chính thức lực lượng vệ binh quốc gia Liên bang Nga. Khác với quân đội Nga, kế hoạch sử dụng Vệ binh Quốc gia ở nước ngoài không phải thông qua Duma Nga và lực lượng này chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Tổng thống Liên bang. Các đơn vị Vệ binh Quốc gia Nga cũng được trang bị như các đơn vị bộ binh nhẹ.
Ở trên là 2 lý do mà vào giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi 77% các lực lượng chủ chốt của Nga tập trung ở phía Đông và Nam thì để giảm bớt tình trạng thiếu bộ binh của mặt trận Kiev và Kharkov, các đơn vị Vệ binh Quốc gia Nga đã được đưa vào làm thê đội hai sau khi các BTG chọc sâu vào Ukraine. Để bảo mật các đơn vị Vệ binh Quốc gia từ nhiều nơi trên cả nước đã được huy động tham gia cuộc tập trận kéo dài 1 tháng trước khi nổ ra chiến tranh ở biên giới. Nhiệm vụ của họ trong cuộc tập trận giả tưởng là tiễu trừ các hoạt động khủng bố và bạo loạn dân sự ở hậu phương các đơn vị quân đội. Khi chiến tranh nổ ra và được thông báo là họ sẽ tiến vào Ukraine, các đơn vị này đã mang theo toàn bộ các trang bị của mình chứ không để lại khu doanh trại dã ngoại ngoài trời đã trở nên hoang vắng (vì các đơn vị tập trận đã tiến sang Ukraine). Tương tự như các đơn vị quân đội trước đó, một số đơn vị Vệ binh Quốc gia bị phục kích. Trong số các xe của Vệ binh Quốc gia bị bắn cháy và bỏ lại, người Ukraine phát hiện ra các quân phục duyệt binh, các trang bị khiên, dùi cui chống bạo động, các biển hiệu các cơ quan hành chính… Đây là các thứ đồ mà lực lượng này sử dụng trong các khu tập trận (treo biển “tòa thị chính” lên một khu nhà bỏ hoang và mặc giáp cầm khiên vào để chống lại một đám đông biểu tình đang định chiếm “tòa thị chính”). Quần áo duyệt binh thì để cho một cuộc duyệt binh của các đơn vị cuối cuộc tập trận (tất nhiên bộ chỉ huy Nga, vì bảo mật, sẽ không vừa nháy mắt vừa thì thào với vệ binh quốc gia là “các anh không cần mang đồ duyệt binh đâu vì sau tập trận, lần này sẽ không có duyệt binh mà có chuyện lớn khác”). Có lẽ những người lính hậu cần của lực lượng Vệ binh Quốc gia Nga sẽ không tưởng tượng được việc họ chất tất cả các thứ tập trận đó lên xe theo đơn vị chứ không vứt lại bãi đất hoang sau tập trận sẽ khiến cho báo chí phương Tây sau này tạo ra huyền thoại “quân Nga định chiếm Kiev trong 72 giờ. Họ mang theo cả biển tiếng Nga để thay lên các tòa nhà, đồ chống biểu tình và quân phục để diễu binh mừng chiến thắng”.
Một trong cách bổ sung lực lượng bộ binh khác cho các đơn vị quân đội tiến vào Ukraine là việc một số sỹ quan ở các BTG đã “thuyết phục” các binh lính nghĩa vụ ký hợp đồng với quân đội trước thời điểm chiến tranh nổ ra. Thậm chí một số người được đưa vào đất Ukraine khi không hề ký hợp đồng (họ không được thông báo là sẽ vượt biên giới mà chỉ được nói là cứ đi theo đơn vị). Thường các quân nhân này là những người tham gia các vị trí chuyên môn khó thay thế như lái xe, thông tin,… Điều này đã dẫn tới việc ở mặt trận Kharkov có khoảng gần 100 quân nhân nghĩa vụ từ chối chiến đấu khi họ phát hiện ra mình đang ở trên đất Ukraine và đánh nhau với quân đội Ukraine. Sau khi bị tước bỏ vũ khí và bị tập trung lại một chỗ mà không biết quân đội sẽ làm gì với mình, họ đã tự quay video nói rõ tình hình và đưa lên telegram. Về vụ việc này mà tổng thống Putin đã ra lệnh điều tra và có 12 sỹ quan Nga đã bị xử lý. Một trường hợp khác là một binh sỹ nghĩa vụ làm đầu bếp trên soái hạm Moskva. Khi tàu này rời bến để tham chiến, các thủy thủ đều không biết mục đích chuyến đi. Chỉ khi tàu bị chìm và người lính này nằm trong số bị chìm theo tàu thì người cha mới phát hiện ra là con ông không thuộc diện phải đi chiến đấu.
Các sự kiện như trên xuất hiện trên mạng xã hội đã được truyền thông phương Tây khai thác theo hướng tinh thần quân đội Nga đang sụp đổ, các đơn vị đang phản chiến.
Vậy câu hỏi đặt ra là “Tại sao Putin không sửa luật này trước khi tấn công Ukraine?” Câu trả lời là Putin hiểu rõ chiến lược của phương Tây. Xét về mọi khía cạnh, quân đội Ukraine có thể thắng vài trận đánh nhưng sẽ không thể đánh bại Nga trong cả cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, phương Tây sẽ áp dụng cách thức mà họ đã làm khiến Liên Xô thua ở Apghanistan. Họ sẽ chi viện cho Ukraine giống như họ chi viện cho các lực lượng Mujahideen trước đây ở Apghanistan để kéo dài cuộc chiến. Họ sẽ tuyên truyền với người dân là cuộc chiến ở Ukraine là cuộc chiến của riêng Putin nhằm thể hiện bản thân mình giống như ban lãnh đạo Liên Xô trước đây muốn cuộc chiến Apghanistan không phải vì nhân dân Liên Xô mà vì vấn đề ý thức hệ của họ. Từ đó phương Tây sẽ gây chia rẽ trong nội bộ nước Nga, làm suy yếu sự ủng hộ của người dân đối với Putin và cuối cùng là buộc ông phải rút quân hoặc, nếu may mắn, lật đổ chính quyền của ông và thay bằng một lực lượng dễ bảo, thân phương Tây.
Putin biết rằng với một xã hội hiện đại như ngày nay, việc truyền bá các tư tưởng đó vào Nga dễ hơn nhiều vào Liên Xô những năm 1980s. Ông biết rằng, mọi thứ liên quan tới cá nhân ông sẽ được phương Tây lợi dụng để chia rẽ ông với người dân. Thực tế cho thấy, lãnh đạo của G7 và bà Usula von Der Leyen, chủ tịch ủy ban châu Âu trong cuộc gặp đầu tiên sau chiến tranh nổ ra đã nói rằng vì Putin cho rằng ông ta mạnh mẽ nên họ cũng sẽ tỏ ra mạnh mẽ hơn. Và thủ tướng Anh Boris Johnson lúc đó còn pha trò một cách rẻ tiền hơn (và được những người còn lại hưởng ứng) rằng có lẽ họ sẽ phải cởi trần ra như Putin. Chi tiết pha trò này cho thấy phương Tây, từ cấp lãnh đạo cao nhất, ở những nơi nghiêm túc nhất, cũng sẵn sàng mang mình ra làm công cụ để tuyên truyền cho thế giới rằng tất cả những gì Putin làm, không phải là cho đất nước của ông mà là để chứng minh tính “con đực đầu đàn” của mình. Họ cố gắng khiến cho mọi người nghĩ rằng ông là một kẻ độc tài, mê đắm quyền lực của chính mình tới mức không còn phân biệt thực tế với giấc mơ, và do đó, đẩy toàn bộ người Nga vào một cuộc chiến tranh tàn bạo. (Hình 6, Putin trong một chuyến dã ngoại ở hồ Baikal và hình ảnh ông cởi trần khi đi câu cá và cưỡi ngựa đã được phương Tây đưa lên thành chuyện ông là một kẻ cuồng điên vì hình ảnh của chính mình.)
Hiểu rõ chiến lược đó của phương Tây có lẽ là lý do khiến ông không tìm cách sửa đổi Luật Liên bang số 93 năm 1995 vào trước khi cuộc chiến nổ ra.
Vậy Putin đã làm gì để giải quyết vấn đề thiếu bộ binh?
Ở bài (3) CHIẾN TRANH Ở UKRAINE - Nga rút lui ở Kherson và một giai đoạn khốc liệt mới của cuộc chiến sắp bắt đầu. (substack.com) tôi đã nói về việc thay đổi liên tục các tướng tổng chỉ huy quân đội Nga tại Ukraine. Vào tháng 4/2022, tướng Dvornikov, người có kinh nghiệm lâu đời nhất trong các tướng của Nga và là người chỉ huy cánh Nam với các thành công lớn trong đầu chiến dịch trở thành tổng tư lệnh đầu tiên của bộ chỉ huy thống nhất của quân Nga tại Ukraine. Tới tháng 6/2022, ông đã thành công trong việc hạ hai thành phố - pháo đài lớn ở Donbass là Severodonestk và Lysychansk. Sau đó, ông buộc phải dừng các trận đánh và rời khỏi vị chí tổng chỉ huy. Người thay thế ông là tướng Zhidko, người thân cận với Putin và ngay trước đó là tổng cục trưởng tổng cục chính trị của quân đội Nga.
Từ tháng 7 tới tháng 9/2022 là thời kỳ mặt trận Ukraine tương đối bình yên. Người Nga và Ukraine gặp nhau tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ để bàn về thỏa thuận hòa bình. Trong tháng 7 và tháng 8/2022 Nga đàm phán và chấp nhận trao trả hơn 200 tù binh bị bắt tại Mariupol để đổi lấy gần 50 tù binh Nga và Medvedchuck qua sự môi giới của Thổ Nhĩ Kỳ. Nga cũng chấp nhận vai trò trung gian của Thổ Nhĩ Kỳ trong việc đạt được thoả thuận cho Ukraine vận chuyển lúa mì xuất khẩu qua đường biển. Nga và Thổ Nhĩ Kỳ cũng đạt được các tiến bộ trong đàm phán và kết quả sau này là việc Thổ Nhĩ Kỳ trở thành trung tâm trung chuyển khí gas của Nga cho Nam Âu. Cũng trong giai đoạn chiến trường yên ắng này các nước châu Âu đã ngừng các hỗ trợ quân sự cho Ukraine (trong tháng 7/2022 không có viện trợ vũ khí, sang tháng 8.2022 thì có nhưng số lượng thấp hơn nhiều so với yêu cầu của nước này). Đồng thời, do chiến trường Ukraine tạm lắng nên các vấn đề nội bộ của châu Âu lại nổi lên và 4 chính phủ châu Âu lớn tiếng chống Nga nhất đã sụp đổ.
Với tất cả các dấu hiệu như vậy, cả thế giới đều hy vọng rằng một thỏa thuận hòa bình sẽ được ký kết. Trong khi đó, ở sâu trong hậu phương, quân đội Ukraine đã dùng 2 tháng vô chiến sự này để tập hợp một lực lượng khoảng 60 ngàn người. 20 ngàn trong số này sẽ được điều xuống phía Nam để tạo ra một đòn nghi binh vào vùng Kherson, và 40 ngàn người sẽ tham gia vào cuộc phản công ở Nam Kharkov.
Ở phía Nga cũng vậy, Putin có hàng loạt các hoạt động ngoại giao và ông để xảy ra một điều mà các tướng lĩnh Nga đều lo sợ. Đó là vào tháng 8/2022, sẽ có rất nhiều binh lính Nga được rời chiến trường theo luật để về nước (họ có quyền đó sau 6 tháng ở vùng chiến sự). Chính vì điều này mà các tướng lĩnh đã cố yêu cầu ông hoặc là sửa luật để có thể bổ sung lính nghĩa vụ vào lực lượng chiến đấu, hoặc là sửa đổi quy định về 6 tháng này, hoặc là tiếp tục cuộc chiến ngay sau khi Lysychansk và Severodonetsk bị thất thủ hồi tháng 6/2022 để đánh quỵ quân Ukraine trước khi thời hạn 6 tháng đến. Putin từ chối tất cả điều đó. Ông cho phép binh lính đến hạn được về nhà và cho truyền hình ảnh đó trên TV cho cả thế giới biết. Và đó là lý do khiến mâu thuẫn giữa ông và Dvornikov tới đỉnh điểm và ông phải thay Dvornikov bằng một tướng trung thành và là một tổng cục trưởng tổng cục chính trị.
Tôi muốn các bạn xem hình H5. Trên hình này đường màu vàng là đường chiến tuyến giữa hai bên vào tháng 6/2022. Ở trên đường vàng này, tôi muốn các bạn nhìn vào điểm đánh dấu chéo và khoanh đỏ. Đó là thành phố Balaklyia nơi sẽ xảy ra đòn tấn công đầu tiên của quân đội Ukraine vào tháng 9/2022. Vùng màu xám hơi hồng kế bên thành phố này là vùng mà người Ukraine sẽ chiếm lại từ Nga trong cuộc phản công và có diện tích hơn 2.000 km2.
Trong suốt tháng 7 và 8/2022, bất chấp việc thành phố Balaklyia nằm ở ngay trên tuyến đường chiến lược M3 nối Kharkov với Izyum; bất chấp việc thành phố đó nằm trong một vòng cung nhô ra đột xuất về phía Ukraine với quân Ukraine đóng ở hai bên sườn; bất chấp việc ở cả một vùng xung quanh và hậu tuyến của Balaklyia không có một đơn vị nào của Nga và điều đó khiến thành phố trở thành một mục tiêu vô cùng hấp dẫn cho một cuộc tấn công hợp vây; bất chấp các tướng lĩnh và nhiều chuyên gia nói rằng khu vực này thực ra là một khoảng trống không có phòng thủ một cách công khai trên mạng xã hội; bất chấp việc các vệ tinh Nga cho thấy quân đội Ukraine đang tập hợp 40 ngàn quân ở vùng này; bất chấp tất cả những điều đó, Putin duy trì tại thành phố Balaklyia, miếng mồi ngon cho Ukraine này, 2 đại đội Vệ binh Quốc gia, lực lượng trực tiếp dưới quyền kiểm soát của ông.
Cái gì tới sẽ tới. Vào tháng 9/2022, cuộc tấn công của Ukraine nổ ra. Từ 20 tới 30 ngàn quân Ukraine đã nhanh chóng bao vây Balaklyia. 2 đại đội Vệ binh Quốc gia Nga đã cầm cự trong gần 1 tuần cho tới khi được quân đội tới cứu viện và rút khỏi thành phố. Tiếp đó, quân Nga liên tục rút khỏi các thành phố mà họ phải rất vất vả mới chiếm được trong 2 tháng trước đó và để lại một vùng rộng lớn cho Ukraine. Điểm sáng duy nhất cho quân Nga là không một đơn vị nào của họ bị bao vây và tiêu diệt. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là không có những trận đánh lớn, đẫm máu xảy ra. Quân Nga rút nhanh và mang theo tất cả những thứ có thể, kể cả những người dân Ukraine có khả năng sẽ bị phía bên kia trả thù vì hợp tác với người Nga. Chiến dịch phản công của Ukraine dừng ở đường đứt màu nâu vào tháng 9/2022.
Nếu bạn nhìn vào bản đồ thì sẽ thấy là, sau 1 tháng của cuộc tấn công, phía Nga ở đây vẫn không có lực lượng nào đáng kể. Chiến tuyến của Nga ở khu vực này có ít quân nhất. Thế thì vì sao phía Ukraine không tiếp tục tiến lên? Lý do là vì sau khi quân Nga rút lui khỏi các thành phố Balaklyia, Izyum, Lyman Đỏ thì dư luận Nga trở nên hoàn toàn khác. Lúc này mọi tầng lớp đều đổ lỗi lên chính phủ Nga rằng họ để xảy ra thất bại vì cách tiến hành chiến tranh nửa vời, “đánh nhau với bàn thay đi găng” của họ. Rằng Putin không còn cương quyết như thời cuộc chiến Chechnya lần 2 khi mà vào ngày thành phố Lyman Đỏ bị quân Nga bỏ thì ông ấy vẫn đọc và ký các sắc lệnh về xây bệnh viện và khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em ở Mariupol. Đây chính là điều Putin cần. Ông cho tiến hành trưng cầu dân ý và tuyên bố sáp nhập 4 tỉnh mới của Ukraine vào Nga. Cùng lúc, ông tuyên bố động viên cục bộ 300 ngàn quân nhân và khuyến khích các quân nhân tình nguyện (mà nhờ thế ông có thêm 80 ngàn người tình nguyện nhập ngũ). Một mặt ông trấn an nhân dân là vẫn còn chưa tới lúc phải thắt lưng buộc bụng để tiến hành chiến tranh nhưng một mặt khác, ông ra lệnh cho chuyển toàn bộ nền công nghiệp quốc phòng sang thời chiến.
Việc chuyển nền công nghiệp quốc phòng sang thời chiến là một động thái mà nhiều người không hiểu nhiều. Về hình thức, điều này có nghĩa là mọi nhà máy sẽ hoạt động ba ca liên tục và không có ngày nghỉ. Mọi nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất vũ khí sẽ được ưu tiên. Tuy nhiên, một điều quan trọng hơn là tất cả các nhà máy vũ khí sẽ hoạt động dưới sự chỉ đạo của bộ quốc phòng mà không dựa trên nguyên tắc thị trường. Điều này có nghĩa là, ở thời bình, một công ty sản xuất xe tăng có thể bán trong thời bình, qua đấu thầu cho bộ quốc phòng, một chiếc xe tăng với giá 5 triệu đô la và giá này đã bao gồm cả chi phí lẫn lãi của nhà máy; thì trong nền kinh tế thời chiến, họ sẽ không làm việc để lấy lãi nữa. Các nguyên vật liệu cho sản xuất sẽ được nhà nước cấp; các công nhân và cán bộ nhà máy sẽ được đảm bảo trả lương. Tuy nhiên, chủ các nhà máy sẽ không có quyền quyết định giá bán của mình là bao nhiêu nữa. Nhà nước sẽ cung cấp mọi thứ và đảm bảo mọi thứ cho việc sản xuất, nhưng sản phẩm tạo ra sẽ không còn là của anh nữa. Điều này sẽ khiến cho sản lượng vũ khí và đạn dược của Nga sẽ được sản xuất ra nhanh, nhiều và rẻ hơn rất nhiều so với các nước phương Tây.
Ở phương Tây lúc này, các quốc gia NATO không phải là bên tham chiến với Nga nên họ không thể chuyển nền kinh tế sang thời chiến. Do đó, họ chỉ có thể đặt hàng mua vũ khí và đạn dược từ các công ty tư nhân. Các công ty này sẽ bán với giá có lãi theo cơ chế thị trường. Và theo cơ chế thị trường thì sẽ là nhu cầu càng cao thì giá bán càng đắt. Ngoài ra, các doanh nghiệp này cũng không thể tăng ca vì các quy định của luật lao động.
Việc sáp nhập 4 tỉnh vào Nga cũng tạo ra cho các tướng lĩnh Nga muồn nguồn nhân sự dồi dào. Đó là gần 1 triệu binh lính nghĩa vụ hiện nay hoàn toàn có thể được họ điều động tham chiến với Ukraine ở Donbass vì đó giờ đã là đất Nga. Đó là lý do khiến cho cuộc tấn công của Ukraine dừng lại. (xin lưu ý là bản đồ trong hình H5 chỉ thể hiện các đơn vị Nga và Ukraine đã được ghi nhận là tham chiến chứ không thể hiện các đơn vị quân nghĩa vụ đang đóng trên đất Nga). Tuy nhiên, ngay trong thông điệp liên bang của mình, để đảm bảo rằng người dân Nga không quá lo lắng rằng mình đang dùng thủ thuật để lách qua Luật Liên bang số 93, Putin đã tuyên bố rằng ông sẽ không gửi những người được động viên ra mặt trận trước khi họ được tái huấn luyện đầy đủ. Bộ trưởng quốc phòng Nga thì tuyên bố rằng không một người lính bộ binh nào sẽ được gửi ra mặt trận khi chưa bắn đủ 600 viên đạn trên trường tập.
Về các diễn biến của cuộc phản công Nam Kharkov, các bạn có thể tham khảo bài viết của tôi hồi tháng 10/2022 (xin lưu ý là trong bài đó có nhiều vấn đề chưa giải quyết được vào thời điểm đó).
Nói tóm lại, mâu thuẫn sâu sắc nhất giữa Putin và bộ chỉ huy quân Nga tại Ukraine là vấn đề tham chiến của lính nghĩa vụ quân sự để khắc phục vấn đề thiếu quân số.
Vấn đề này đã bị phương Tây chốt chặn bằng Luật Liên bang số 93 vào năm 1995 cấm sử dụng lính nghĩa vụ Nga ngoài biên giới mà đến thời điểm này Putin vẫn chưa thể gỡ bỏ. Trong suốt giai đoạn từ 2012 tới nay, Putin đã từng bước gỡ bỏ cái cơ chế ảnh hưởng mà phương Tây đã tạo ra thông qua các tổ chức NGO; ông tạo ra lực lượng Vệ binh Quốc gia để bù phần nào cho quân số bị kiểm soát. Cuối cùng, ông để cho Kiev chiếm lại vùng Nam Kharkov trong một chiến dịch ngoạn mục để khiến cho người Nga đồng ý sáp nhập 4 tỉnh Ukraine và vì thế ông có thể tiến hành động viên. Ngay cả khi đã có thể sử dụng lính nghĩa vụ đang sẵn có thì ông vẫn tránh và thực hiện một giải pháp trung gian là gọi nhập ngũ các cựu binh và kêu gọi tình nguyện. Tất cả các hành động đó được tính toán kỹ lưỡng để tránh việc phương Tây tuyên truyền cho người Nga rằng đây là cuộc chiến của riêng mình Putin.
Ở phần tiếp theo, phần 8, chúng ta sẽ bàn tiếp về chiến thuật của các bên trong giai đoạn 3, giai đoạn Nga đã sáp nhập 4 tỉnh.
LƯU Ý VỀ BẢN QUYỀN:
Kính gửi Chú tác giả,
1. Ngày 05/5/2023, UAV tấn công điện Kremlin - Nga tuyên bố sẽ đáp trả khi có thời cơ thích hợp;
2. Ngày 15/5/2023, Nga phóng tên lửa phá hủy các kho vũ khí của Ukraine gây thiệt hại ước tính 500 triệu USD.
3. Nguy cơ sụp đổ ngân hàng và suy thoái kinh tế tại Châu Âu và Mỹ đang gần kề.
Sự kiện UAV 05/05 có đánh dấu một giai đoạn mới trong chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraine, liệu đây có phải bước chuyển mình từ chiến dịch quân sự thành chiến tranh vệ quốc.
Có nhiều sự kiện xảy ra trong giai đoạn cuối t4 đầu t5 mà chưa thấy Chú tác giả ra bài viết mới. Liệu Chú tác giả đã hết hứng thú với đề tài này.
Là một người theo dõi chiến sự Ukraine -Nga, cháu rất mong chờ bài viết mới của Chú tác giả cùng những bình luận của các bạn hữu đang quan tâm!!!
Từ Fan sâu gạo,
Cám ơn bài viết của bác, giờ mới hiểu hơn biệc Nga chiếm đấu như gà mắc tóc và dễ dàng rút đi bỏ lại các vùng đã chiếm được