CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) – Phần 3. Chiến lược của các bên trong giai đoạn đầu tiên của cuộc chiến
Zelensky mong muốn hòa bình, nhưng điều đó không phụ thuộc vào ông.
Ở phần 2, chúng ta đã nói về chuyện cựu thủ tướng Đức Merkell, cựu tổng thống Pháp Holland và cựu thủ tướng Israel Bennett nói ra các tình tiết báo hiệu tình hình nguy ngập đang tới với Ukraine và ngôn ngữ ngoại giao của phương Tây đã thay đổi trong 1 năm chiến tranh ra sao. Ở phần này, chúng ta bàn về tình hình chiến trường.
Để đánh giá một cuộc chiến, đầu tiên ta cần xem xét mục tiêu hướng đến của mỗi bên trong cuộc chiến. Với mục tiêu đó thì xác định xem chiến lược mà bên đó dùng có phù hợp với mục tiêu không. Một mục tiêu tốt mà chiến lược sai thì chắc chắn không đạt được mục tiêu. Sau khi xác định chiến lược thì xem xét tiếp là bên đó có khả năng thực hiện chiến lược đó hay không. Việc xem xét này sẽ căn cứ trên việc đánh giá (i) bộ máy chỉ huy, (ii) tiềm lực quân sự, và (iii) trình độ và tinh thần binh sỹ. Tiếp đó chúng ta cần xem xét tiếp về khả năng duy trì nguồn lực cho chiến tranh có dài lâu hay không. Để làm điều này ta sẽ đánh giá về tiềm lực kinh tế lẫn khả năng sản xuất của bên tham chiến cũng như sự ủng hộ của người dân trong nước đối với cuộc chiến. Song song với các việc trên, chúng ta cần xem xét khả năng của bộ máy tiến hành chiến tranh của bên tham chiến có nhanh chóng tìm ra các sai lầm và sửa đổi các sai lầm đó, cũng như khả năng thích ứng với các hoàn cảnh mới hay không. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét kết quả của tất cả các yếu tố nói trên trên chiến trường.
Để các bạn tiện theo dõi, tôi tạm chia cuộc chiến tới nay thành 4 giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất là kể từ khi chiến tranh nổ ra vào tháng 2/2022 tới tháng 4/2022 (khi Nga thấy rằng không thể ký kết được thỏa thuận hòa bình với Ukraine và thay đổi chiến lược chiến tranh);
Giai đoạn thứ hai từ tháng 4/2022 tới tháng 7/2022 là giai đoạn Nga rút khỏi Kiev và chuyển quân sang Donbass và kết thúc bằng việc đánh bại cụm quân phía Đông của Ukraine và chiếm được 2 thành phố quan trọng là Lysychansk và Severodonetsk;
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn đàm phán qua trung gian Thổ Nhĩ Kỳ và cuộc phản công thành công của Ukraine ở nam Kharkov từ tháng 7/2022 tới tháng 9/2022;
Giai đoạn thứ tư là giai đoạn Nga thay đổi tính chất cuộc chiến và chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện (từ tháng 10/2022 tới nay).
1. Mục tiêu của cuộc chiến
Trước hết, chúng ta xem xét mục tiêu cuộc chiến của Ukraine vì việc này là dễ nhất. Vì Ukraine là bên bị tấn công (việc họ muốn đập tan quân đội của 2 nước ly khai trong 8 năm qua thì đã rõ nhưng không bàn ở đây) nên mục đích của họ là rõ ràng: họ muốn kết thúc chiến tranh với các điều kiện là (i) bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của họ với đường biên giới trước năm 2014 và (ii) được đảm bảo an ninh trong tương lai khỏi sự đe dọa từ Nga bằng cách gia nhập NATO và EU.
Đối với NATO, mục tiêu cũng khá rõ ràng. Vào tháng 4/2022 ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ, một nước thành viên NATO, nói rằng “sau các cuộc trao đổi ở Istanbul [giữa Ukraine và Nga], chúng tôi không nghĩ rằng cuộc chiến sẽ kéo dài thế này… tuy nhiên, sau cuộc gặp của các ngoại trưởng các nước NATO, có một ấn tượng rằng trong các nước NATO có một số nước muốn cuộc chiến tiếp tục, để cuộc chiến kéo dài và làm cho nước Nga yếu đi. Họ không quan tâm nhiều tới tình trạng của Ukraine.” Chỉ sau phát biểu này vài ngày, bộ trưởng quốc phòng Mỹ nói rằng Mỹ muốn Nga suy yếu để ngăn chặn các cuộc chiến khác sau này. Cùng thời điểm này, thủ tướng Anh, Boris Johnson bay tới Kiev yêu cầu Kiev ngừng đàm phán và ký kết thỏa thuận hòa bình với Nga kèm theo những lời hứa về các khoản viện trợ kinh tế và quân sự lớn. Ursula, chủ tịch Hội đồng Châu Âu thì tuyên bố trong một cuộc họp báo với những lời có cánh “Nga sẽ sa vào một sự suy sụp về kinh tế, tài chính và công nghệ trong khi Ukraine sẽ cùng tiến về tương lai với châu Âu”. Mục tiêu của NATO không phải là lập lại hòa bình ở Ukraine mà là làm suy yếu nước Nga qua cuộc chiến đó.
Đối với nước Nga, mục tiêu của họ trong cuộc chiến này là khó xác định nhất. Tổng thống Putin tuyên bố rằng mục đích của cuộc chiến là (i) phi phát xít hóa chính quyền Ukraine và (ii) phi quân sự hóa Ukraine. Thực sự không ai hiểu đầy đủ nội hàm của 2 mục tiêu này là gì. Và tôi nghĩ rằng đó chính là điều người Nga muốn. Với một mục tiêu như vậy thì họ có thể diễn giải ra bất kỳ cách nào phù hợp với tình hình thực tế. Nếu như cuộc chiến tiến hành thuận lợi, chính phủ Ukraine lưu vong thì Nga có thể lập ra một chính phủ thân Nga và tuyên bố rằng việc phi phát xít hóa đã hoàn thành (và chính quyền thân Nga sẽ tự động làm các việc phi quân sự hóa chính mình). Nếu cuộc chiến chớp nhoáng, lật đổ không thành công và kéo dài, họ có thể diễn giải nó thành các mục tiêu đất đai, hay quân sự. Ví dụ nếu như họ có thể tiêu diệt hoặc đánh tan được phần lớn lực lượng quân đội Ukraine thì họ có thể dừng cuộc chiến để ký kết hiệp định hòa bình có lợi cho họ. Trong cuộc chiến 2008 với Georgia (Gruzia), trong 5 ngày giao chiến, người Nga đã loại bỏ 22% quân lực của Georgia (và điểm quan trọng hơn là con số 22% này là tinh hoa của quân đội Georgia được NATO huấn luyện). Nga cũng có thể diễn giải việc phi quân sự hóa là việc chiếm được tất cả các cơ sở quân sự, hoặc công nghiệp quốc phòng chính của Ukraine để đảm bảo quân đội của họ không thể được tái trang bị. Điều này cũng có nghĩa là phần lớn diện tích của Ukraine sẽ rơi vào tay Nga. Hoặc họ có thể giải thích việc phi quân sự hóa bằng cách đặt ra một vùng đệm với nước Nga tương ứng với tầm với của vũ khí tầm xa của Ukraine. Ngoại trường Lavrov từng nói nếu phương Tây cung cấp tên lửa có tầm bắn 100 km cho Ukraine thì quân Nga sẽ đảm bảo là các vũ khí đó không có mặt trong tầm 100 km từ biên giới Nga. Điều đó có thể hiểu là họ sẽ lập các vùng đệm là các nước cộng hòa ly khai trên lãnh thổ Ukraine như đã làm từ hồi 2014.
Điều trên có nghĩa là ngay từ đầu chiến tranh Nga tuyên bố một mục tiêu mà không ai hiểu và từ đó tạo ra một khoảng không gian rất rộng cho các hoạt động tiến hay thoái của họ sau này. Điều này dẫn tới khó đoán định được các chiến lược quân sự của Nga.
Dưới đây, chúng ta sẽ phân tích chiến lược và việc thực hiện chiến lược của mỗi bên trong từng giai đoạn của cuộc chiến.
2. Chiến lược và thực hiện chiến lược giai đoạn đầu của cuộc chiến từ 24/2/2022 tới khi quân Nga rút khỏi Kiev và Kharkov.
2.1 Chiến lược và thực hiện chiến lược của Nga:
Có lẽ mở màn cuộc chiến, mục tiêu của người Nga là (i) chính phủ Kiev lưu vong và lập ra một chính phủ mới thân Nga hoặc (ii) buộc Kiev ký một điều khoản có lợi cho Nga. Và để đạt được mục tiêu này, người Nga sử dụng chiến lược sau:
(i) Ra đòn phủ đầu khiến cho lãnh đạo của chính quyền và Ukraine bị tê liệt trong hành động và tiêu diệt các lực lượng quân sự không, hải quân và phòng không;
(ii) Tiến nhanh, thọc sâu và trên nhiều hướng để làm rối loạn hệ thống phòng thủ của Ukraine;
(iii) Áp sát các thành phố lớn nhất là Kiev và Kharkov để gây sức ép buộc Zelensky phải đàm phán hoặc tạo điều kiện cho một cuộc đảo chính ở Kiev;
(iv) Mở ra kênh đàm phán thông qua một bên thứ ba không phải là khối NATO.
Chúng ta thấy rằng, các hành động quân sự của Nga thể hiện rõ chiến lược trên.
Khởi đầu cuộc chiến, tên lửa tầm xa chính xác của Nga đã tấn công vào tất cả các căn cứ quan trọng của lực lượng không quân, phòng không và hải quân của Ukraine. Sau 2 tuần đầu tiên của cuộc chiến, phía Nga tuyên bố là họ đã thành công trong việc tiêu diệt phần lớn lực lượng không quân và phòng không của Ukraine. Lực lượng hải quân nhỏ bé của Ukraine cũng bị xóa sổ trong thời gian này và các máy bay chiến đấu hạng nặng Su-34 của Nga có thể bay dưới trần mây thấp ở các thành phố miền Đông Ukraine để ném bom.
Tiếp theo đó, quân đội Nga tiến vào từ 3 hướng trên một mặt trận dài gần 3.000 km khiến cho tất cả mọi người đều không đoán được các hướng tấn công chính hoặc ý đồ của Nga. Trong gần 1 tháng từ khi mở màn cuộc chiến, chúng ta không thấy các cuộc cơ động của các khối quân lớn của Ukraine với xe tăng và thiết giáp dù họ có rất nhiều. Điều đó cho thấy hệ thống chỉ huy của quân đội Ukraine đã bị tê liệt một phần và không có khả năng tổ chức một cuộc phòng thủ có tổ chức trên toàn mặt trận. Tuy nhiên, Ukraine đã thành công trong việc tồn tại tới khi các nước phương Tây quyết định ủng hộ cứng rắn cho mình. Có thể nhận định rằng Nga đã đạt được mục tiêu làm tạm thời tê liệt chính quyền và quân đội của Ukraine.
Chỉ vài ngày sau khi quân Nga nổ súng, và khi quân Nga đã tiến sát vào Kiev, Putin đã chính thức kêu gọi quân đội Ukraine lật đổ tổng thống Zelensky. Đây có thể được coi là một tín hiệu từ bên ngoài cho các lực lượng thân Nga trong chính quyền và quân đội Ukraine nổi dậy. Người có thể thay Zelensky trong trường hợp đảo chính thành công sẽ là Victor Medvedchuck, lãnh tụ đảng đối lập thân Nga, người sau này bị Kiev bắt và được Nga đánh đổi lấy nhiều tù binh Azov bị bắt ở Mariupol. Tuy nhiên việc này đã không thành công, không có cuộc đảo chính nào cả và quân đội Ukraine sau những choáng váng ban đầu đã bắt đầu đánh trả ngày càng mãnh liệt. Việc tổng thống Putin cách chức hai lãnh đạo cao cấp của lực lượng tình báo quân đội Nga phụ trách vấn đề Ukraine hai tháng sau có lẽ liên quan trực tiếp tới thất bại này.
Việc mở ra một kênh đàm phán thông qua nước thứ 3 không phải là thành viên NATO cũng đã được thực hiện. Người Nga dùng Israel làm người trung gian đàm phán. Israel là một bên rất phù hợp cho công việc này. Người dân và các chính trị gia Israel không hề che giấu việc họ có ác cảm với các lực lượng dân tộc cực đoan Ukraine vì nguồn gốc liên quan tới phát xít. Nếu như xét việc gần gũi về tình cảm thì Israel gần với Nga hơn với Ukraine rất nhiều. Trong chiến tranh thế giới thứ 2, người Do Thái bị giết bởi quân Đức và quân Bandera một cách có hệ thống chứ không phải người Nga. Rất ít người biết rằng nòng cốt quân đội Israel trong ngày đầu lập quốc là các cựu quân nhân Xô Viết. Những người này là người Do Thái công dân Liên Xô đã di cư tới Israel theo tiếng gọi của tổ quốc. Trong tất cả những người Do Thái trên toàn thế giới thì những người Do Thái từ Nga tới là những người được đào tạo cao nhất về quân sự và an ninh (vì những người cộng sản Liên Xô đặt vấn đề giai cấp lên trên dân tộc nên người Do Thái, với trình độ học vấn cao, có cơ hội lên cao trong quân đội và lực lượng an ninh Liên Xô so với toàn bộ phần còn lại của thế giới). Cho tới tận những năm 1960, điều lệnh quân đội của Israel phần lớn được dịch từ điều lệnh quân đội Liên Xô và các tác phẩm về cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên Xô như “Đường cao tốc Vokolamsk” của Alexander Bek là sách đọc bắt buộc của học viên sỹ quan Israel. Đến nay, chúng ta vẫn có thể tìm thấy các video clip trong đó dàn nhạc quân đội Israel hát các bài hát yêu nước của Liên Xô trong chiến tranh vệ quốc bằng tiếng Do Thái.
Đó là về mặt quá khứ. Về hiện tại, kể từ khi Nga can thiệp vào Syria năm 2015, giữa Nga và Israel đã thiết lập một đường dây liên lạc thường xuyên để tránh các cuộc đụng độ giữa quân đội hai nước. Phía Nga cũng đã rất kiềm chế đối với các va chạm xảy ra ngoài ý muốn giữa quân đội hai bên tại Syria trong 8 năm qua. Chính bản thân cựu thủ tướng Bennett của Israel nói rằng Nga có tên lửa S-300 ở Syria và nếu họ bấm nút thì phi công Israel sẽ bị bắn rơi. Do đó, làm trung gian cho Nga và Ukraine sẽ có lợi cho Israel. Ở đây chúng ta thấy rằng, tương tự như với Thổ Nhĩ Kỳ, người Nga, khi can thiệp vào Syria, đã khéo léo không biến 2 quốc gia liền kề là Israel và Thổ Nhĩ Kỳ thành kẻ thù không đội trời chung (như họ với chính quyền Assad) mà thậm chí còn có thể hợp tác cùng họ trong cuộc chiến Ukraine. Đây cũng là một thắng lợi của Nga trên mặt trận ngoại giao mà chúng ta sẽ bàn ở phần khác.
Việc chọn Israel làm trung gian đã cho thấy, thông qua tiết lộ cách đây vài ngày của cựu thủ tướng Israel, Nathaniel Bennett, là Nga đã đi rất gần tới việc đạt được mục tiêu (ii) buộc Ukraine ký với mình một thỏa thuận hòa bình có lợi cho mình. Việc Putin hứa không sát hại Zelensky đã khiến cho ông này tin tưởng và quay lại dinh tổng thống từ hầm trú ẩn nơi ông lánh nạn trước đó và công khai live stream về việc ông ở đó. Ukraine và Nga cũng đã tiến hành đàm phán với thỏa thuận hòa bình được soạn thảo tới lần thứ 17 và cả 2 bên đều có các nhân nhượng lớn vào tháng 4/2022 và việc ký kết chỉ bị dừng lại khi Mỹ ngăn chặn Kiev làm vậy.
Như vậy, tiết lộ của Bennett cho thấy trái với suy nghĩ của đại đa số mọi người, trong đó có bản thân tôi, là giai đoạn đầu của cuộc chiến (với chiến lược đánh nhanh) là một thất bại hoàn toàn của Putin. Thực ra, ông ta đã suýt thành công đạt được mục đích của mình nếu không có Mỹ ngăn chặn Kiev ký kết thỏa thuận. (quan điểm sai lầm của tôi về giai đoạn đầu có thể xem ở đây
)
Điều này cho thấy, việc quân Nga tiến nhanh, thọc sâu vào lãnh thổ của Ukraine không phải là kết quả của sự chủ quan, kiêu ngạo, hay khinh thường kẻ địch. Thực tế cho thấy, họ đã tính khá sát với những gì diễn ra trên thực tế. Chúng ta nhớ rằng trong tuần đầu tiên của cuộc chiến, Mỹ và các nước NATO đã bí mật nói với tổng thống Zelensky rằng họ sẽ mở cửa nếu ông ấy lưu vong. Tuy nhiên, người Nga không đạt được mục tiêu này khi phương Tây quay sang quyết tâm tiến hành chiến tranh thông qua Ukraine. Tuy nhiên, bước ngoặt này, theo quan điểm của tôi, Ukraine có được là nhờ tổng thống Zelensky. Về việc này, chúng ta sẽ phân tích ở phần kế tiếp.
2.2 Chiến lược và thực hiện chiến lược của Ukraine và phương Tây:
Ta có thể thấy rằng vào giai đoạn đầu của cuộc chiến, chiến lược duy nhất khả thi của Ukraine là bằng mọi cách phải tồn tại cho đến khi có các diễn biến có lợi cho họ. Ở đây, chúng ta phải thừa nhận rằng Ukraine đã thực hiện xuất sắc chiến lược của họ bất chấp mọi khó khăn tưởng như không thể vượt qua được.
Tôi cho rằng ở giai đoạn đầu của cuộc chiến khi Nga thực hiện chiến lược đánh nhanh thì cá nhân tổng thống Zelensky chiếm vai trò cực kỳ quan trọng trong đánh giá chiến lược của Ukraine và tôi sẽ giành phần lớn phân tích cho cá nhân ông.
Sau những choáng váng và tạm thời tê liệt trong tuần đầu, sau khi nhận được đề nghị trung gian đàm phán từ Israel và sự xác nhận từ Bennett rằng Putin hứa sẽ không giết ông ta thì Zelensky đã trở về dinh tổng thống và bắt đầu các cuộc live stream của mình. Phải công bằng mà nói rằng tổng thống Zelensky đã có một chiến lược đàm phán cực kỳ khôn khéo. Với tình thế nguy ngập của Ukraine khi quân đội của Ukraine chưa thoát khỏi cú sốc đầu tiên, ông đã tiến hành một cuộc đàm phán khôn khéo với cả phương Tây lẫn Nga. Có lẽ, vào thời điểm này cả phương Tây lẫn Nga đều đã đánh giá thấp khả năng đàm phán của Zelensky.
Về bản chất, các chính trị gia giỏi cũng là những diễn viên xuất sắc với một sự khác biệt là sân diễn của họ rộng lớn hơn, phức tạp hơn so với một diễn viên đích thực. Tuy nhiên, việc nắm quyền lực trong thời gian dài sẽ khiến cho những chính trị gia lọc lõi như Putin hay Biden sẽ đi theo các cách ứng xử truyền thống, bảo thủ và thường xuyên bị bất ngờ bởi các chính trị gia có cách tiếp cận “phi truyền thống”. Chúng ta sẽ thấy các chính trị gia “truyền thống” như Putin, Obama, Biden, Medvedev luôn xuất hiện trong các nghi lễ chính thức với các bộ vest may cắt rất khéo và luôn tỏ ra mạnh mẽ, vui vẻ. Cách phát biểu của họ cũng luôn theo các chuẩn mực truyền thống với ý tứ thật được cài đặt thành nhiều tầng lớp trong lời nói của họ. Đại đa số các trường hợp, những chính trị gia truyền thống sẽ “thắng” các chính trị gia “phi truyền thống” – trừ khi những người thuộc nhóm sau lại có sự hiểu biết sâu hơn về tình cảm của đám đông. Trong trường hợp này, nhóm sau lại đạt được cảm tình của công chúng bằng các hành động, phong cách, lời nói, hình dáng “không giống ai” của mình.
Ví dụ điển hình của những người này là Donald Trump, Borish Johnson và Zelensky. So với Hillary Clinton thì Donald Trump như là một tấm gương phản diện hoàn toàn từ kinh nghiệm chính trị tới hành động, lời nói. Thế nhưng Trump lại có kinh nghiệm nhiều năm trong showbiz nên ông biết quảng đại quần chúng thích gì – và vì thế đã thắng Hillary Clinton. Tương tự, với kinh nghiệm làm báo của mình, Boris Johnson với mái tóc rối như tổ quạ và cách phát ngôn không vòng vèo đã chiến thắng các đối thủ “truyền thống” trong cuộc đua trở thành thủ tướng nước Anh. Trường hợp của Zelensky còn ngoạn mục hơn, không hề có một kinh nghiệm chính trị nào, ông đi thẳng từ một diễn viên vào cuộc đua chức vụ tổng thống với một đảng được thành lập bởi ê-kíp những người sản xuất ra bộ phim làm ông nổi tiếng. Người Ukraine đã nhìn thấy ở ông sự tương phản với tổng thống Poroshenko. Poroshenko là một tỷ phú, còn ông là một diễn viên bán sức lao động nghệ thuật của mình để kiếm sống. Poroshenko có hàng loạt tay chân đủ các thể loại, thì ông chỉ có những người bạn làm phim (đó là với cách nhìn của nhân dân. Còn ai thực sự chống lưng cho Zelensky thì ta sẽ không bàn ở đây). Poroshenko tự hào về những “thành tích” của ông đối với việc cắt đứt quan hệ với Nga, vây hãm và triệt hạ 2 nước cộng hòa ly khai thì ông nói về hòa bình và tìm cách chung sống với người Nga láng giềng. Trong các cuộc tranh luận trên truyền hình, ông có những hành động khiến cho Poroshenko hoàn toàn bất ngờ và trở nên thụ động, mất điểm trước nhân dân. Một ví dụ điển hình là việc ông quỳ xuống tưởng niệm những người đã hy sinh cho maidan và khiến cho Poroshenko loay hoay không biết phải làm thế nào và cuối cùng cũng phải gượng gạo quỳ theo.
Chính các “phá cách” này của Zelensky đã khiến cho cả Putin lẫn lãnh đạo phương Tây bị bất ngờ. Ngay sau khi được đảm bảo là Nga sẽ không giết mình, ông trở về dinh tổng thống và bắt đầu các cuộc live stream. Nếu như Peter Arnett trở thành cái tên huyền thoại nhất trong các phóng viên chiến trường và CNN trở thành người khổng lồ truyền thông khi ông là người duy nhất truyền trực tiếp cảnh máy bay Mỹ ném bom thủ đô Baghdad, Iraq, thì với Zelensky, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, bất kể một ai có đường truyền internet cũng có thể được xem live stream từ dinh tổng thống của một quốc gia đang bị tấn công và được thực hiện bởi chính tổng thống nước đó. Chỉ trong 1 đêm, tổng thống Zelensky trở thành ngôi sao sáng nhất trong giới truyền thông mà không một ai có thể cạnh tranh được. Chính vì điều đó, các thông điệp của ông đã được truyền trực tiếp tới mọi người dân ở cả Ukraine, Nga lẫn mọi quốc gia khác trên toàn thế giới. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các quyết định của lãnh đạo cả 2 phía: phương Tây và Nga trong cuộc chiến.
Trong 1 tuần đầu tiên, mọi người hầu như không có thông tin về cuộc chiến và không ai biết Zelensky đang ở đâu. Trong khoảng thời gian này, Mỹ và các nước phương Tây nói rằng họ sẵn sàng tiếp nhận nếu chính phủ của ông lưu vong để tiếp tục cuộc kháng chiến. Thế nhưng, sau 1 tuần im lặng và khi đã có lời hứa của Putin, trong buổi live stream đầu tiên, Zelensky cho mọi người xem ông đang ở đâu và tường thuật cho họ các vụ bắn phá của quân Nga vào Kiev. Ông cũng khẳng định rằng ông không sợ bất kỳ ai . Trong buổi live stream tiếp theo, ông thẳng thắn đề cập tới tình hình nguy ngập của Ukraine và nói toạc ra rằng ông đã gọi điện cho lãnh đạo các nước phương Tây nhưng không có ai trả lời ông cả. Với thái độ mệt mỏi và thất vọng không hề giấu diếm, ông nói rằng họ (lãnh đạo các nước phương Tây) hứa rằng sẽ đảm bảo tính mạng cho ông nếu như ông lưu vong nhưng ông không cần điều đó, ông cần vũ khí để chống lại quân Nga.
Các phát biểu trên của ông có thể đã khiến cho cả Putin lẫn lãnh đạo phương Tây bị bất ngờ. Không có một nguyên thủ quốc gia nào từng cư xử như ông. Chính những phát biểu và dáng vẻ của Zelensky trong những ngày đầu, cộng với việc ông nhanh chóng cử một nhóm đàm phán hòa bình với Nga khiến cho mỗi bên của cuộc chiến đều có những nhận định và hành động sẽ ảnh hưởng quan trọng tới diễn biến của chiến tranh sau này.
Về phía Nga, có lẽ Putin tin rằng ông sẽ đạt được một thỏa thuận hòa bình với Zelensky có lợi cho mình và cuộc chiến sẽ diễn ra ngắn gọn. Khi cuộc chiến nổ ra, các cơ quan ngoại giao Nga đã kín đáo thông báo cho các nước có quan hệ thân thiết với mình là chiến dịch quân sự đặc biệt sẽ kết thúc trong vòng 15 tới 20 ngày. Thông tin này bị lọt ra bên ngoài và được báo chí phương Tây đưa lên thành huyền thoại rằng Nga chủ quan, kiêu ngạo tới mức nghĩ rằng sẽ chiếm toàn bộ Ukraine trong thời gian đó. Tuy nhiên, Putin không chỉ tin vào những gì mà Zelensky nói trên live stream mà hệ thống tình báo của ông ta cũng có thể đã cho ông ta biết rằng Zelensky thực sự muốn đàm phán. Có thể Putin đã diễn giải việc Zelensky nói toạc ra việc lãnh đạo các nước phương Tây lẩn tránh nghe điện của ông là một trong những hành động dạo đầu, chuẩn bị tinh thần cho người dân Ukraine để đón nhận một thỏa thuận hòa bình mới có lợi cho Nga. Có lẽ điều đó đã khiến cho Putin làm chậm các bước tiến của quân Nga tại khu vực Kiev và Kharkov để tạo điều kiện cho Zelensky chuẩn bị dư luận trong nước.
Thế nhưng, về phía phương Tây, hành động của Zelensky không khác gì một tiếng sét giữa trời quang. Trong nhiều năm, song song các hoạt động huấn luyện, tái trang bị không công khai cho quân đội Ukraine, hệ thống truyền thông của phương Tây đã khiến cho người dân của họ tin rằng phương Tây sẽ ở bên Ukraine mọi lúc cần thiết. Việc nói toạc móng heo của tổng thống Zelensky đã khiến ông trở thành một người hùng còn lãnh đạo phương Tây trở thành những kẻ yếu đuối trong con mắt người dân. Sự yếu đuối đó lại càng tương phản mạnh hơn khi so sánh nội dung đầy cứng rắn của bài phát biểu của Putin về việc mở chiến dịch đặc biệt được truyền đến phương Tây. Trong con mắt người dân phương Tây, Putin là một nhà độc tài từ phương Đông đang quyết tiêu diệt một nước Ukraine nhỏ bé với một vị tổng thống bình dân, dũng cảm nhưng mệt mỏi vì bị các đồng minh bỏ rơi khi hoạn nạn. Và các lãnh đạo phương Tây, trái với những gì họ nói thì ngay khi Nga mở cuộc tấn công, hành động đầu tiên của họ là hèn nhát – gợi ý cho Zelensky lưu vong.
Việc chính quyền thân Mỹ tại Apghanistan sụp đổ trong 3 tuần và hình ảnh những người Apghanistan thân Mỹ bám càng các máy bay sơ tán khỏi Kabul vào tháng 8/2021 (bốn tháng trước khi Nga tấn công Ukraine) đã khiến cho nhiều người Mỹ liên tưởng tới cuộc rút chạy của Mỹ khỏi Việt Nam năm 1975. Vào năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ sau 55 ngày chiến đấu và cả cuộc chiến của Mỹ được nhớ lại bằng biểu tượng hình ảnh những người tị nạn chen chúc bám lên những chiếc máy bay rời khỏi Sài Gòn. Sự ám ảnh thua trận này mạnh tới mức, trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ 1, ngay sau khi đã tiêu diệt được các lực lượng quân sự lớn nhất của Iraq, tổng thống Bush cha đã dừng cuộc chiến để tránh bị sa lầy và khi tuyên bố chiến thắng năm 1991, ông nói “Ơn Chúa, chúng ta đã loại bỏ được hội chứng Việt Nam một lần và mãi mãi” (‘By God, we’ve kicked the Vietnam syndrome once and for all’).
Thế nhưng vào tháng 8/2021, cảnh sụp đổ của Kabul giống với Sài Gòn năm 1975 tới mức lưỡng viện của Quốc hội Mỹ buộc phải mở một cuộc điều trần để chính quyền của tổng thống Biden trình bày lý do khiến Taliban thắng cuộc chiến một cách ngoạn mục như vậy. Trong khi cuộc điều trần vẫn chưa kết thúc và các lập luận đổ lỗi thất bại cho việc tổng thống Trump đã thỏa thuận với Taliban trước đó chưa đủ thuyết phục thì “quả bom” của Zelensky nổ ra. Đối diện với uy tín của tổng thống Biden đang suy giảm vì hàng loạt các vấn đề trong nước (kinh tế suy giảm, lạm phát cao nhất trong 46 năm gần đây, thất nghiệp kỷ lục) và đảng Cộng Hòa đang nhắm tới cuộc bầu cử quốc hội giữa kỳ vào tháng 11/2022, chính quyền của đảng Dân chủ sau những tính toán thiệt hơn, thấy rằng họ buộc phải hành động cứng rắn.
Một lý do khác nữa, quan trọng hơn về mặt cá nhân là sự liên quan của con trai tổng thống Biden đối với các hoạt động kinh doanh tại Ukraine, trong đó có cả các phòng thí nghiệm sinh học. Các tiết lộ trong vài tuần gần đây cho thấy chính quyền Ukraine dưới thời Poroshenko đã chấp thuận cho các phòng thí nghiệm này thí nghiệm trên binh lính Ukraine về tác dụng của một số bệnh nguy hiểm (bao gồm cả cúm và HIV) lên những người có gốc gene slavo. Ngay trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến, CNBC đã quay được 1 đoạn clip trong đó nhân viên của SBU của Ukraine đốt các tài liệu ở sân sau trụ sở của mình. Lúc đó họ nghĩ rằng quay được cảnh SBU đang chuẩn bị rút lui khỏi Kiev. Tuy nhiên, những tiết lộ gần đây cho biết là vào ngày 25/2/2022, một ngày sau khi Nga mở màn cuộc chiến, tổng thống Zelensky đã ra lệnh tiêu hủy mọi tài liệu liên quan tới các phòng thí nghiệm sinh học và clip mà CNBC quay được chính là cảnh các nhân viên SBU đang hủy các tài liệu đó. Về việc này, Nga đã đề nghị Liên Hợp quốc điều tra về các hoạt động của các phòng thí nghiệm sinh học của Mỹ trên đất Ukraine và tuyên bố rằng họ đang giữ 10 ngàn tài liệu và các bằng chứng tịch thu được từ các phòng thí nghiệm này. Cuộc điều tra không được tiến hành vì Mỹ dùng quyền của mình ngăn chặn.
Như vậy là vì những thủ thuật ngoại giao của mình, tổng thống Zelensky đã đẩy được phương Tây tới việc phải công khai, mạnh mẽ ủng hộ mình cả về lời nói lẫn hành động.
Vậy câu hỏi đặt ra là tổng thống Zelensky có phải là người chủ chiến và là người thúc đẩy phương Tây đi vào thế đối đầu với Nga không?
Tôi nghĩ rằng Zelensky là người mong muốn hòa bình. Tuy nhiên tình hình chính trị của Ukraine khiến ông ta không thể thực hiện thỏa thuận Minsk và khi chiến tranh nổ ra, ông cần sự ủng hộ của phương Tây để có thế mạnh trong đàm phán với Nga. Khi sự việc phát triển thì nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông và chiến tranh tiếp diễn.
Có một điểm đáng lưu ý là bản thân con người của Zelensky từ xuất thân tới cuộc sống trước kia của ông không có gì giống với một thủ lĩnh tân phát xít mà người Nga thích gán cho ông. Là một người có gốc Do Thái và có ông nội là sỹ quan Hồng quân Liên Xô được thưởng nhiều huân chương trong chiến tranh Vệ quốc 1941-1945 chống Đức quốc xã, ông là người có tiếng mẹ đẻ là tiếng Nga. Quá trình hoạt động nghệ thuật của ông gắn liền với cả Ukraine lẫn Nga khi ông thường xuyên biểu diễn ở cả hai nơi – thậm chí là đã có lần Putin xem ông biểu diễn. Sau khi thành công vang dội trong serie phim truyền hình “Người đầy tớ của nhân dân” trong đó ông thủ vai một tổng thống bình dân mang lại công bằng cho đất nước, ông ra tranh cử tổng thống với Poroshenko. Như đã nói ở trên, ông là một hình ảnh đối lập với Poroshenko về mọi mặt từ con người tới quan điểm chính trị. Điểm khác biệt quan trọng nhất là ông hướng tới hòa bình thông qua đàm phán với Nga. Hơn một lần ông phát biểu rằng người Ukraine không thể phủ nhận một thực tế là nước Nga đã, đang và sẽ ở cạnh Ukraine; do đó, cần phải tìm được tiếng nói chung với họ.
Sau khi trúng cử tổng thống, tôi nghĩ rằng Zelensky phát hiện ra rằng sự việc không hề đơn giản. Các thế lực chính trị ở Ukraine đều có bóng dáng của cường quốc ngoại bang đằng sau. Bản thân các lực lượng này không chỉ có tiền mà còn có cả quân đội riêng dưới nhiều hình thức – ví dụ như các lực lượng bán quân sự dân tộc cực hữu (tuy là lực lượng bán quân sự và được trang bị tốt hơn cả các đơn vị quân đội thông thường và họ lại không chịu sự kiểm soát của quân đội Ukraine). Các đội quân tư nhân này sẵn sàng sử dụng vũ lực với các chính trị gia, các cơ quan nhà nước khi va chạm với họ (giống như cách họ đã làm ở cách mạng maidan, tạo ra nhà nước Ukraine ngày nay). Hơn nữa, có lẽ chỉ khi ở cương vị tổng thống, ông mới phát hiện ra là quá trình NATO hóa và bài Nga mà Poroshenko đã tiến hành trong 8 năm trước đó với sự hậu thuẫn của phương Tây đã trở thành một quá trình không thể đảo ngược bằng các tiến trình chính trị thông thường. Có thể ông nhận ra rằng mọi hành động đàm phán với Nga hoặc thực hiện thỏa thuận Minsk sẽ bị các thế lực khác diễn giải rằng ông là một Yanukovic mới và ông có thể bị lật đổ như ông này. Khi nhận thấy điều này, ông buộc phải tiếp tục đi theo con đường mà NATO và Poroshenko đã tạo ra trước đó. Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy tổng thống Zelensky muốn cứu vãn hòa bình tới phút cuối cùng.
Lần lượt vào tháng 12 và tháng 1 năm 2022, Nga gửi các dự thảo về một thỏa thuận liên quan tới Ukraine cho NATO và Mỹ và đề nghị đàm phán. Điều này cho thấy rằng Nga biết rõ Mỹ và NATO mới là người quyết định việc thực hiện thỏa thuận Minsk hay tạo ra một cơ chế hòa bình cho Ukraine chứ không phải Zelensky. Tại sao người Nga lại gấp gáp như vậy? Bởi vì thỏa thuận Minsk sẽ hết hiệu lực vào ngày 21/2/2022. Sau khi Mỹ và NATO lờ đi, không trả lời các đề nghị của Nga và 3 ngày sau khi thỏa thuận Minsk hết hiệu lực, chiến tranh nổ ra.
Điểm đáng lưu ý là, trước khi nổ ra chiến tranh 1 tuần, người Mỹ công khai trên báo chí rằng Nga sẽ có thể dùng tới chiến tranh để giải quyết vấn đề Ukraine. Ngay lập tức Nga chối và nói rằng quân đội của họ áp sát biên giới Ukraine chỉ là tập trận thông thường. Tổng thống Zelensky thì lập tức lên tiếng nói rằng ông ở Kiev và biết rõ nhất tình hình, không có chiến tranh như Washington nói. Sau khi chiến tranh nổ ra, Washington thường dùng việc này để ám chỉ rằng họ đã cố cứu vãn hòa bình bằng cách nói ra điều đó để hy vọng Nga sẽ chùn tay và Zelensky chuẩn bị; nhưng cả Putin lẫn Zelensky đều đã không nghe họ. Điều này có thể khiến cho mọi người cho rằng tổng thống Zelensky là người không thông minh nên không tin vào điều Mỹ thông báo cho ông về chiến tranh. Tuy nhiên nếu nghĩ theo hướng này thì sẽ là một sai lầm. Như đã nói ở trên, việc trở thành tổng thống Ukraine cho thấy Zelensky cực kỳ thông minh và rất quyền biến khi cần thiết. Tôi chắc chắn rằng người Mỹ đã cho Zelensky các hình ảnh vệ tinh cho thấy rõ các đơn vị Nga đang tập hợp theo đội hình chiến đấu ở bên kia biên giới ra sao. Ông cũng biết rõ rằng mô hình từ tập trận chuyển sang tấn công đã được Liên Xô trước đây sử dụng ở Hungary năm 1956, Tiệp Khắc 1968, Ba Lan 1980. Vậy thì tại sao ông vẫn tuyên bố trước dư luận là sẽ không có chiến tranh nổ ra? Sau này, Zelensky nói rằng ông phải tuyên bố như vậy vì lo sợ sự hoảng loạn sẽ bùng lên ở các thành phố Ukraine. Tôi cho rằng ông buộc phải nói thế vì muốn giữ thể diện cho phương Tây (lúc ông nói ra điều này là lúc Mỹ đang xem xét gói viện trợ 45 tỷ đô la Mỹ cho Ukraine).
Lý do thực sự của việc Zelensky phản bác Washington rằng không có chiến tranh là ông muốn bắn một tín hiệu tới Nga rằng ông muốn hòa bình. Tuy nhiên, người Nga lúc đó đã thực sự tin là nếu chỉ với mong muốn hòa bình của riêng Zelensky thì sẽ không đủ mà các thế lực chính trị chống Nga ở Ukraine cần một bị giáng một đòn đánh mạnh thì mới chấp thuận cho Zelensky ký kết thỏa thuận hòa bình. Vì thế, chiến tranh vẫn nổ ra.
Ở trong những tuần đầu tiên của chiến tranh, cả phương Tây lẫn Nga đều có chung một nhận định là quân đội Ukraine sẽ tan rã và Zelensky sẽ hoặc là bỏ chạy hoặc là ký thỏa thuận hòa bình với Nga. Với cùng một nhận định trên nên cả hai phía này đều hành động theo cách có lợi cho mình. Người Nga thì làm chậm nhịp tấn công lại và bắt đầu đàm phán hòa bình với Zelensky. Nếu ông ký kết hiệp định hòa bình với Nga lúc đó thì đó sẽ là một thắng lợi hoàn hảo cho Nga – vừa thể hiện sức mạnh quân sự, ý chí nhà nước (sử dụng tới chiến tranh) vừa đạt được mục tiêu mình muốn với cái giá rất thấp về thương vong. Về phần phương Tây, nếu như quân đội Ukraine tan rã thì việc Zelensky cùng chính phủ lưu vong sẽ có lợi hơn cho họ. Họ sẽ sử dụng chính phủ lưu vong này như là một con bài để đàm phán với Nga. Lịch sử hiện đại có nhiều ví dụ cho trường hợp đó. Năm 1939, sau khi bị Đức và Liên Xô đánh bại, Anh đã đón nhận chính phủ và một phần lực lượng quân đội Ba Lan sang lưu vong. Trong suốt chiến tranh và tới tận năm 1945, người Anh coi đây là đại diện hợp pháp duy nhất của người dân Ba Lan. Khi Liên Xô tiến vào giải phóng Ba Lan khỏi phát xít Đức và lập ra một chính phủ thân mình thì phương Tây không công nhận chính phủ này. Tuy nhiên, vào năm 1945, Anh và Mỹ đã thỏa thuận được với Liên Xô về việc phân chia châu Âu sau chiến tranh. Theo thỏa thuận này thì Liên Xô sẽ bỏ rơi đảng cộng sản Hy Lạp và phong trào kháng chiến ở nước này để đổi lấy việc Anh và Mỹ sẽ giải tán chính phủ Ba Lan lưu vong, chấp nhận Ba Lan thuộc quyền ảnh hưởng của Liên Xô và bàn giao lại hết những người Nga lưu vong chiến đấu cho Đức quốc xã đã đầu hàng đồng minh. Ngay sau thỏa thuận đạt được thì chính phủ Ba Lan lưu vong bị giải tán bất chấp thực tế là quân đội Ba Lan lưu vong đã chiến đấu và đổ máu trên mọi mặt trận ở phía Tây của Đồng Minh suốt từ năm 1940 tới 1945. Đây có thể là mô hình mà Mỹ hướng tới khi tuyên bố công khai rằng họ sẽ mở cửa nếu Zelensky lưu vong.
Tuy nhiên, cả Nga và Mỹ đều đã lầm. Zelensky, quân đội và người dân Ukraine đã chống trả lại nước Nga. Trong khi ở Kiev, tổng thống Zelensky từ chối lưu vong thì ở ngoài mặt trận, những người lính thường và sỹ quan cấp thấp của Ukraine, bất chấp ưu thế tuyệt đối về hỏa lực, không quân và tăng thiết giáp thuộc về phía Nga trong những ngày đầu, họ vẫn liên tục tấn công quân Nga bất kể khi nào có cơ hội. Chúng ta có nhiều video về những tổ chiến đấu nhỏ, đơn lẻ của Ukraine dùng súng chống tăng, tên lửa chống tăng chặn đánh một đoàn xe tăng thiết giáp lớn của Nga. Hệ quả tất nhiên là sau khi bắn cháy 1 – 2 chiếc đi đầu thì các tổ chiến đấu đó nhanh chóng bị quân Nga tiêu diệt. Tuy nhiên, các binh lính Ukraine vẫn tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ tự sát đó. Những thất bại quân sự của Nga trong giai đoạn đầu của cuộc chiến không phải là do đối đầu với quân chủ lực của Ukraine mà là thất bại trong việc bảo vệ các tuyến vận tải, hậu cần cho lực lượng tăng thiết giáp thọc sâu khỏi các cuộc phục kích của các nhóm đi lẻ của quân đội Ukraine.
Khi cuộc chiến nổ ra, phản ứng của người dân đối với quân Nga đã phản ánh sự chia rẽ trong xã hội Ukraine trước đó. Nếu như ở các vùng phía Đông, nhiều người chào đón quân Nga, hoặc là thờ ơ nhìn quân Nga tiến vào thì ở phía Tây và phía Nam, ở nhiều nơi, người dân Ukraine kéo ra chặn đường, phản đối quân Nga. Tất nhiên, điều này không thể cản được sự tiến lên của các đạo quân. Tuy nhiên, sự phản ứng của người dân được truyền đi khắp thế giới khiến cho ban lãnh đạo Nga buộc phải cẩn trọng hơn trong việc sử dụng hỏa lực. Điều này khiến cho các đội quân của Nga bị “trói tay” và dẫn tới thiệt hại nặng. Một ví dụ điển hình là việc một trung đội đặc nhiệm DVD của Nga bị tiêu diệt ở thị trấn Gostomel gần Kiev. Đơn vị này, tuân thủ lệnh chỉ được nổ súng trước khi bị tấn công nên đã bị đặc nhiệm Ukraine phục kích tiêu diệt toàn bộ cùng với xe thiết giáp ở khoảng cách 20-30 thước khi họ tiến vào thị trấn. Hầu hết lính Nga bị bắn hạ ngay khi đang ngồi trên xe, không kịp bắn lại.
Việc quân Nga tiến nhanh và không nổ súng vào dân thường cũng đã dẫn tới một cảnh tượng buồn cười chưa bao giờ có trong các cuộc chiến tranh là khi quân Nga tạm để lại các xe tăng, thiết giáp bị hỏng hóc trên đường tiến quân để cho thê đội hai sẽ đến tiếp quản và sửa chữa thì nông dân Ukraine, yên tâm rằng mình sẽ không bị quân Nga bắn hay trả thù, đã thản nhiên lái máy kéo ra kéo các xe bỏ lại này về nhà mình. Hình ảnh này được phát đi trên toàn thế giới qua mạng Internet khiến cho hầu hết mọi người coi thường quân Nga tới mức cho rằng họ là một đội quân yếu kém và ngớ ngẩn. (Tất nhiên, báo chí phương Tây sẽ không tường thuật những trận đánh ngay từ ngày đầu tiên trong đó quân Nga đã thể hiện trình độ chuyên nghiệp và sự dũng cảm của họ ra sao – ví dụ như trận đánh chiếm sân bay Antonov của 200 lính đặc nhiệm Nga và bảo vệ thành công vị trí này tới khi được tiếp viện bất chấp sự phản công của quân Ukraine với số lượng gấp 10 tới 20 lần). Khi cuộc chiến bước sang giai đoạn 2, sau khi tướng Dvornikov (người được phương Tây đặt biệt danh là “tên đồ tể ở Syria”) lên nắm quyền tổng chỉ huy quân Nga ở Ukraine vào tháng 4/2022 và Nga chuyển sang đánh lớn ở Donbass thì không ai còn tin là quân Nga ngớ ngẩn nữa và nếu có xe tăng và thiết giáp Nga bỏ lại giữa đồng vì hỏng máy thì cũng không một nông dân Ukraine nào dại dột tái diễn lại cảnh kéo xe tăng về nhà mình nữa.
Quay lại những tuần đầu của cuộc chiến, trong khi phương Tây chưa tin rằng Ukraine sẽ đứng vững và chưa có các hỗ trợ mạnh mẽ về vũ khí và tiền bạc cho Ukraine thì Zelensky đã tiến hành đàm phán với Putin thông qua trung gian hòa giải là Israel.
Lúc này Zelensky hiểu rõ rằng (và ông cũng phát biểu nhiều lần sau này) độ khắc nghiệt của các điều kiện do Nga đưa ra sẽ phụ thuộc vào (i) sự ủng hộ của phương Tây và (ii) sự kháng cự của Ukraine. Ông cũng hiểu rằng các lực lượng dân tộc chủ nghĩa cực đoan có thể lật đổ hoặc thậm chí sát hại ông và gia đình mình. Chính vì các lý do trên, cùng một lúc ông đã làm bốn việc. Thứ nhất, ông tuyên bố với cả thế giới là ông không nhận vé lưu vong mà Washington đề nghị, ông cần vũ khí. Thứ hai, ông tuyên bố sẽ chiến đấu chống lại cuộc xâm lược của Nga và kêu gọi nhân dân chiến đấu. Thứ ba, ông bí mật đưa bố mẹ sang Israel. Thứ tư, ông công khai chấp nhận đàm phán với Nga.
Chi tiết Zelensky đưa bố mẹ sang Israel là cực kỳ đáng quan tâm. Ông biết rằng cả ông và vợ sẽ không thể đi khỏi Ukraine nhưng bố mẹ ông có thể sẽ bị các bên (đặc biệt là lực lượng dân tộc cực đoan) khống chế. Đó là lý do ông đưa bố mẹ ra nước ngoài. Tuy nhiên, ông cũng hiểu rất rõ rằng Mỹ và các quốc gia NATO là người đã khiến cho thỏa thuận Minsk không thể thực hiện và thực tế đã ngăn cản các cơ hội hòa bình bằng cách từ chối một cơ chế an ninh liên quan tới Ukraine do Nga đề xuất khi thỏa thuận Minsk hết hiệu lực. Chính vì thế ông gửi bố mẹ mình sang Israel chứ không sang Mỹ hay các nước NATO khác. Như đã nói ở phần trước, quốc gia này không thích gì các lực lượng dân tộc cực đoan Ukraine vì sự tàn sát người Do Thái tại nước này trong Thế chiến thứ hai. Điều đó khiến cho các lực lượng dân tộc cực đoan Ukraine không thể vươn tay tới Israel để khống chế bố mẹ ông. Việc ông chấp nhận Israel là trung gian hòa giải cùng đã khiến cho Putin hứa với Bennett rằng sẽ không tìm cách sát hại ông. Do đó, việc đưa bố mẹ mình sang Israel là một cách ném một hòn đá mà trúng ba đích. Thứ nhất, ông loại trừ khả năng lực lượng dân tộc cực chủ nghĩa đoan nắm giữ bố mẹ mình. Thứ hai, ông đảm bảo rằng Mỹ và NATO cũng không nắm được họ. Thứ ba, ông cho Putin thấy rằng ông ta tin tưởng vào lời hứa của Putin và đặt sự an toàn của bố mẹ mình vào bên trung gian mà cả ông lẫn Putin đã lựa chọn.
Sự khôn khéo của Zelensky, việc quân đội Ukraine đứng vững do sự dũng cảm của binh lính và sỹ quan quân đội Ukraine trong chiến đấu, tinh thần ái quốc của người dân Ukraine và tiến trình đàm phán được công khai cho thấy Ukraine và Nga sắp đạt được thỏa thuận hòa bình đã khiến cho phương Tây thay đổi thái độ. Tuy nhiên, ngoài các điều vừa nêu có những yếu tố khác khiến cho phương Tây không chỉ thay đổi thái độ mà còn đặt một mục tiêu hoàn toàn ngược lại với mục tiêu của họ trong những ngày đầu chiến tranh (đó là sử dụng chính quyền lưu vong của Zelensky để mặc cả với Nga).
Các yếu tố khác khiến cho phương Tây thay đổi mục tiêu là bao gồm:
Thứ nhất, họ nhìn nhận các thiệt hại của quân Nga (các đoàn xe hậu cần bị chặn đánh, các đơn vị tiên phong bị phục kích và tiêu diệt, số lượng xe tăng và thiết giáp bị sa lầy hoặc hỏng hóc bị Ukraine “bắt” được) là do sự yếu kém của quân đội Nga và sự vượt trội của quân đội Ukraine. Họ đã không nhìn thấy rằng các thiệt hại của quân Nga chủ yếu là do chiến thuật mà Putin sử dụng (và chiến thuật đó sử dụng theo hướng tạo điều kiện cho tổng thống Zelensky thuyết phục các phe chống đối về việc cần phải thỏa thuận hòa bình với Nga nhưng lại không gây thiệt hại quá lớn khiến cho việc hàn gắn quan hệ Nga – Ukraine sau này khó khăn).
Thứ hai, phương Tây nhìn nhận sự thận trọng của Nga trong giai đoạn đầu có nguyên nhân là Nga lo sợ các đòn trừng phạt kinh tế của phương Tây như hồi 2014 (xin xem phần 1 của loạt bài này). Phương Tây cũng không tin rằng khi áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế thì họ sẽ phải hứng chịu những rối loạn kinh tế ra sao và Nga thì không bị ảnh hưởng nặng như họ tính.
Thứ ba, phương Tây cho rằng Putin sẽ không có gan để đi đến tận cùng của cuộc chiến. Họ cho rằng ông là một tay chơi bạc tháu cáy, và ông sẽ “ăn non”, bỏ cuộc khi bị sức ép lớn.
Giải nghĩa: có thể một số bạn đọc không phải người Nam sẽ không hiểu thực sự ý nghĩa của từ “tháu cáy”. Tháu cáy là một cụm từ gốc tiếng Quảng Đông với nghĩa là “bắt, ăn cắp gà”. Trong trò chơi poker (xì tố) người dùng thủ đoạn tháu cáy là người có bài xấu nhưng lại tố số tiền đặt lên rất lớn để khiến cho đối thủ tưởng rằng họ có bài cao mà bỏ cuộc, không theo, dẫn tới người tháu cáy thắng toàn bộ số tiền mà các bên đã đặt trước đó (số tiền này hay được gọi là “gà” – và vì thế thắng bằng thủ đoạn gian dối sẽ giống như bắt trộm gà).
Từ những nhận định trên, thay vì việc khuyên tổng thống Zelensky lưu vong, phương Tây tuyên bố sát cánh đến cùng với Ukraine và sẽ cung cấp mọi thứ cần thiết để đánh bại Nga.
Tuy Zelensky đã buộc phương Tây phải ủng hộ mình, nhưng giống như 1 tháng trước đó khi ông bất lực trước việc phương Tây để mặc cho Ukraine tự trôi đến cuộc chiến tranh với Nga (bằng cách không thèm trả lời các đề xuất an ninh của Nga khi thỏa thuận Minsk hết hạn), lần này cũng vậy – mọi việc lại tuột khỏi sự kiểm soát của ông. Lúc này, sau khi phương Tây tin rằng ông sẽ không trốn chạy; người dân và quân đội Ukraine sẽ chống lại Nga, thì họ buộc ông phải tiến hành cuộc chiến tranh – không phải để đạt tới một thỏa thuận hòa bình – mà để Nga trở nên suy yếu. Zelensky cần sự hỗ trợ của phương Tây để có thể có thế mạnh trong đàm phán hòa bình với Nga. Thế nhưng đổi lại, ông nhận được sự ủng hộ đó – nhưng không phải để có được hòa bình mà là để đánh cho Nga tới kiệt quệ. Đó chính là điều mà ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ, Cavusoglu đã bình luận “… tuy nhiên, sau cuộc gặp của các ngoại trưởng các nước NATO, có một ấn tượng rằng trong các nước NATO có một số nước muốn cuộc chiến tiếp tục, để cuộc chiến kéo dài và làm cho nước Nga yếu đi. Họ không quan tâm nhiều tới tình trạng của Ukraine.” Về phần Zelensky, ông ta không thể đi ngược lại phương Tây vì một khi phương Tây đã tuyên bố hỗ trợ hết sức cho ông (còn việc hỗ trợ thật đến đâu sẽ bàn sau) thì các lực lượng dân tộc cực đoan trong nước sẽ không tha cho ông nếu ông tiếp tục đàm phán.
Tóm tắt một cách ngắn gọn về giai đoạn đầu của cuộc chiến như sau: khi thời hạn của các thỏa thuận Minsk sắp kết thúc, người Nga biết rõ rằng Ukraine không thể quyết định được cơ chế thỏa thuận an ninh mới nên đã đề nghị Mỹ và NATO đàm phán. Việc từ chối đàm phán của Mỹ và NATO cùng với việc đầu tư của khối này vào việc trang bị cho quân đội Ukraine trước đó đã dẫn đến việc Nga tấn công phủ đầu Ukraine. Trong những ngày đầu tiên, cả Nga lẫn phương Tây đều tin tưởng sai lầm rằng Ukraine sẽ “đầu hàng”. Tuy nhiên, nhờ sự khéo léo của tổng thống Zelensky, sự anh dũng của quân đội Ukraine sau những choáng váng đầu tiên và tinh thần ái quốc của người dân Ukraine, cả phương Tây lẫn Nga đều nhận ra rằng Ukraine sẽ không sụp đổ nhanh chóng. Điều này dẫn tới việc Nga có những nhượng bộ lớn để có thể ký được thỏa thuận hòa bình. Ngược lại, phương Tây nhìn nhận sự việc theo hướng là Nga sẽ bỏ cuộc sớm vì yếu kém nên đặt ra mục đích hoàn toàn ngược lại ban đầu là yêu cầu Ukraine phải tiến hành chiến tranh để làm suy yếu Nga. Zelensky, người đã cưỡi lên lưng hổ, không thể xuống được và đành bị cuốn theo cuộc chiến.
Phần này tạm chấm dứt ở đây. Các vấn đề chưa bàn sẽ được nêu trong các phần sau.
Chúc các bạn cuối tuần vui vẻ.
LƯU Ý VỀ BẢN QUYỀN:
Trong bài này cụ có vẻ đánh giá cao anh Ze. Theo cháu thì a Ze đơn thuần chỉ nói và làm mọi thứ theo kịch bản của Mỹ với mục tiêu tạo sức ép truyền thông mạnh để ép Eu phải gửi vũ khí, tăng dần mức độ can thiệp vào chiến tranh với Nga. Mục tiêu tối thượng của Mỹ là ngăn Nga và Eu hợp tác với nhau (2 khối này mạnh lên và phát triển thì cùng với TQ vốn có quan hệ tốt trước chiến tranh sẽ là rất tệ cho Mỹ).
Cháu cho là chưa baoh anh Ze có thực quyền. Ngay cả ở giai đoạn đầu, đàm phán chỉ là lấy lệ, có thể chính là cách để phe phát xít thanh lọc lực lượng.
Nga cũng đã xác định từ đầu là phải đánh lâu dài và biết rõ U và Ze ko có thực quyền và cũng ko đàm phán thật. Nhưng để có thể chuyển cuộc chiến thành chiến tranh vệ quốc như trước đây cụ đã phân tích thì ko thể bỏ qua bước đàm phán để ra là mình thực sự muốn đàm phân để tranh thủ sự ủng hộ của chính người Nga và các nước trung lập khác.
Cá nhân mình nghĩ vai trò quyết định trong cuộc chiến này là Mỹ. Tất cả hành động và quyết sách của Mỹ từ trước khi chiến sự xảy ra đến giờ chỉ để đảm bảo vị thế bá chủ của mình: kéo Nga sa lầy vào một chuộc chiến tiêu hao, làm châu Âu trở nên yếu đuối về kinh tế và phụ thuộc về quân sự, Ukriane trở thành thuộc địa với khoản nợ khổng lồ... Nếu được mong bác có một bài phân tích về những hành vi và ý đồ của Mỹ theo từng giai đoạn chiến sự.
Chúc bác nhiều sức khỏe.